Nguyễn Vỹ là một tính cách khác biệt độc đáo. Trong
làng báo ông thật sự táo bạo với văn phong hoạt náo cùng tài kể chuyện hấp dẫn.
Ông in tới 25 cuốn sách cả văn lẫn thơ.
NGUYỄN VỸ không muốn gánh kho vàng mơ mộng
VƯƠNG TÂM
Nhà thơ Nguyễn Vỹ (1912-1971) với tôi như một hiện tượng
nóng bỏng tâm trạng thế sự. Ông là một nghệ sĩ cuối cùng luôn gieo vần khó ở
chân câu. Bên cạnh những dòng thơ say đến chát chúa mang tên Nguyễn Vỹ tôi lại
hình dung ông như một chiến binh hai tay hai súng cưỡi ngựa hý vang trời. Ông
luôn hát bài ca của mình giữa cuộc đời đầy gai góc, đòi lại sự công bằng và tình
yêu thương cho con người.
Ngạo nghễ bất chấp tù đầy
Không mấy ai làm báo đến liều mạng như Nguyễn Vỹ. Ông
lập báo riêng với những cái tên như "Tổ Quốc", "Dân Chủ",
"Dân Ta", "Bông Lúa", "Thằng Bờm" trước mũi súng
của thực dân Pháp và giặc Nhật. Ngay từ năm đầu lập báo "Le Cygne" (Bạch
Nga) vào năm 1937, Nguyễn Vỹ đã bị chính quyền Pháp bắt và kết tội chỉ vì đã viết
loạt bài phê phán đường lối cai trị của thực dân Pháp. Không những tờ báo vì cấm
vĩnh viễn mà chủ bút Nguyễn Vỹ còn bị phạt 3.000 quan và 6 tháng tù giam.
Thân ở trong tù nhưng chí lớn vẫn chờ đợi và âm ỷ làm
thơ: "Trăng với chó tự do ngoài sân ngục/ Tôi bị giam sau bốn bức tường
cao". Hai năm sau chiến sự đất nước thay đổi khi Nhật đánh Pháp và chiếm
đóng nước ta, Nguyễn Vỹ ròng rã đêm hôm viết luôn hai cuốn sách chống
quân Nhật (1940). Hai phát súng của ông bắn chính diện vào giặc Nhật vang
lên lời tuyên cáo: "Kẻ thù là Nhật Bản" và "Cái họa Nhật Bản".
Thế là Nguyễn Vỹ bị giặc Nhật bắt đi đày ở Trà Khê (Phú Yên-1942). Thậm chí ông
còn bị giam vào hầm kín. Phải nói là ông liều chết bởi giặc Nhật hết sức tàn
ác.
Bị cầm tù nhưng ông vẫn kiên cường với những dòng thơ
chửi rủa: "Thằng tôi chờ chết nằm co ró/ Làm thơ âm thầm lấy vần - Chó/ Bỗng
một con chó Nhật vừa đi qua/ Đứng ngoài song sắt trố mắt ngó". Nguyễn Vỹ
luôn tự giễu nhại ngay chính cuộc đời mình và chấp nhận tai họa ập đến. Trong
thời gian này ông luôn đọc sách và nghĩ đến sự cách tân thơ trong sự hy vọng đổi
mới. Vì thế Nguyễn Vỹ đã từng viết những câu thơ 12 chữ để diễn tả tình cảm trước
nỗi đau đất nước: "Đến ngày này non sông đã phủ mấy lớp sương mù/ Mà còn
rên dưới rễ có những vết hận lòng lai láng".
Mãi đến khi Cách mạng tháng 8-1945 thành công, chân ướt
chân ráo vừa ra tù, Nguyễn Vỹ vào Sài Gòn lập ngay tờ báo "Tổ Quốc".
Nhưng với cá tính gân bướng và ý chí quật khởi, qua giọng văn chửi vỗ mặt chế độ
thực dân của Nguyễn Vỹ, tờ báo ngay sau đó bị sập tiệm (Rút giấy phép). Nhưng đất
đâu có chịu giời, ý chí bạt mạng của Nguyễn Vỹ đã mách bảo về một hành trình mới.
Ông lên Đà Lạt (1948) xin chính quyền ra mắt tờ báo "Dân Chủ". Được cấp
giấy phép thế là ông lại vung bút phê phán chế độ Bảo hoàng. Tất nhiên ngọn bút
ông bị bẻ gẫy vì tội xúc phạm "Vua" và tờ báo bị rút giấy phép. Không
chấp nhận, Nguyễn Vỹ phẫn chí trở lại Sài Gòn mấy năm sau lập luôn tờ nhật báo
"Dân Ta" (1952). Ngỡ như cái tên "Dân Ta" có vẻ khiêm nhường
nhưng vẫn xuất hiện những bài báo với giọng văn mỉa mai thâm nho trong con mắt
nhìn soi mói chế độ thực dân. Kéo dài được một năm, "Dân Ta" bị tạm
đình bản (1953). Thời thế xã hội kéo dài mười năm với bao sự đổi thay. Không ngờ
báo "Dân Ta" được phục hồi (1963). Nhưng cái tật ngông ngạo và bới
rác xã hội tỉ mỉ của Nguyễn Vỹ làm chính quyền ngày càng tỏ ra khó chịu. Hai
năm sau tờ báo bị cấm hẳn.
Nhưng thực ra trong những khoảng trống năm tháng chờ
phục hồi tờ báo Nguyễn Vỹ đã cho ra đời những tập san như "Phổ Thông"
(chuyên đề về văn hóa nghệ thuật) và hai tuần báo "Thằng Bờm" và
"Bông Lúa". Riêng tờ "Thằng Bờm" chuyên viết cho trẻ con
nên được bạn đọc ủng hộ nhiệt liệt. Bởi lẽ tờ báo có tính giáo dục cao và khích
lệ tâm hồn con trẻ sống trong tình thân ái và yêu đất nước quê hương. Phải nói
cuộc chơi đầy mạo hiểm của Nguyễn Vỹ với báo chí không hề vơi cạn niềm say mê.
Ông có lý tưởng đấu tranh và yêu nước nồng nàn. Chấp nhận mỏi rủi ro trong sự
nghiệp văn chương báo chí. Đặc biệt với sự sắc sảo và cao ngạo của Nguyễn Vỹ,
thực dân đã từng mua chuộc mời ông làm cố vấn cho chính quyền nhưng không
thành. Ngay cả khi được chính quyền trao giải thưởng văn chương cho tập tiểu thuyết
của Nguyễn Vỹ với mức tiền 6.000 đồng (rất lớn) nhưng ông cũng từ chối không nhận.
Cho dù khi đó làm báo rất vất vả, cuộc sống đầy khó khăn nhưng ông không hạ
mình. Ông cho đó là miếng ăn nhục khi được chính quyền thực dân ban cho. Ông cần
mẫn sống và sáng tác trong sự nghèo đói và trong sạch.
Cuộc chơi với con chữ tượng hình
Riêng với thơ, Nguyễn Vỹ luôn miệt mài đổi mới với sự
khát khao cháy bỏng. Không ít người cho ông là sự ồn ào gây náo loạn trong thi
đàn tiền chiến khi cho ra đời cuốn "Tập thơ đầu" (Premières Poésies)
bằng hai thứ tiếng Pháp-Việt (1934). Hầu như ai cũng biết ông là một tú tài văn
chương với trình độ tiếng Pháp thượng thừa. Ông rời Quảng Ngãi ra Hà Nội học và
có thực tài văn chương. Ấy vậy mà sự vận dụng và làm mới lạ thi ca Nguyễn Vỹ lại
gây ra nhiều tranh cãi. Thậm chí nhà thơ Thế Lữ với bút danh Lê Ta đã từng viết
bài mạt sát thơ ông.
Đến cả Hoài Thanh - Hoài Chân cũng mỉa mai rằng:
"Nguyễn Vỹ đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoèng inh cả
tai…" chỉ bởi Ngyễn Vỹ hô hào: "Ta hãy truyền một thi hứng mới cho thế
kỷ hai mươi/ Ta hãy ký thác trong vần thơ những tình sâu ý hiểm" (thể loại
thơ 12 chữ một câu do Nguyễn Vỹ nghĩ ra). Nhưng rồi thú vị thay chính hai ông
Hoài Thanh - Hoài Chân cũng đã phải công nhận tài thơ Nguyễn Vỹ khi khẳng định
sau đó: "Gửi Trương Tửu” - mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ". Các
ông cho rằng bài thơ "Gửi Trương Tửu" của Nguyễn Vỹ đã thể hiện đúng
mình khi làm thơ trong lúc say rượu. Rung động và chân thực. Tình cảm trở về với
truyền thống và đã quên đi những hình thức sắp xếp những câu chữ thơ thành hình
ảnh chim, cò, mưa, sương… như một bức vẽ.
Cuộc đời thi ca của Nguyễn Vỹ gói gọn chỉ trong bốn tập
thơ. Với thể loại văn và báo thì ông "lướt ga" tới hàng chục cuốn
nhưng với thơ thì lại rụt rè hơn. Có lẽ bởi ông bị choáng váng ngay từ dư luận
"đánh cho dập mặt" của ngôi sao đầu bảng thơ mới là Thế Lữ. Nên mãi đến
18 năm sau Nguyễn Vỹ mới cho ra mắt tập thơ thứ hai "Hoang vu"
(1962). Và tám năm kế tiếp tập thơ "Buồn muốn khóc" (1970) cùng tập
thơ trào phúng "Thơ lên ruột" phát hành trước khi ông mất vì tai nạn
giao thông tại Sài Gòn (1971). Tuy vậy thơ Nguyễn Vỹ lại tỏ rõ thái độ sống tiếp
cận sớm với hiện thực và thể hiện đúng với phẩm chất công dân thi ca.
Cùng thời mở đầu cho phong trào thơ mới, hầu như ai
cũng mượn gió trăng, mây mưa trầm mình vào tình yêu và sự cầu kỳ loang lổ trong
khổ đau thì Nguyễn Vỹ đã tìm đến sự sống trần ai cần lao: "Tôi không muốn
gánh kho vàng thơ mộng/ Đem chợ đời đổi lấy món cân đai/ Đừng nhử tôi ngựa, xe,
tán, võng, lọng/ Ai công hầu khanh tướng mặc ai". Với bài "Gửi Trương
Tửu" ông làm sống động thi đàn vào thập niên 40 với những câu thơ nảy lửa:
"Bây giờ thời thế vẫn thấy khó/ Nhà văn An Nam khổ như chó/ Mỗi lần cầm
bút viết văn chương/ Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương". Một nhân cách Quảng
Ngãi bùng nổ trong thơ ông: "Bao giờ chúng mình gạch một chữ/ Làm cho đảo
điên pho Lịch sử?/ Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa/ Hất mồ nhỏm dậy cười say sưa".
Tuy trong cơn say, thái độ công dân trong thi ca Nguyễn Vỹ vẫn trỗi dậy: "Để
xem hai chàng trai quắc thước/ Quét sạch quân thù trên đất nước?/ Để cho toàn
thể dân Việt Nam/ Đều được tự do muôn muôn năm". Sự bừng thức về dân tộc
trong thơ Nguyễn Vỹ trong dòng thi ca tiền chiến trở thành duy nhất. Thơ ông tiệm
cận với văn chương cách mạng khá sớm.
Vỹ thanh
Nguyễn Vỹ là một tính cách khác biệt độc đáo. Trong làng báo ông thật sự táo bạo với văn phong hoạt náo cùng tài kể chuyện hấp dẫn. Ông in tới 25 cuốn sách cả văn lẫn thơ. Tài năng ông nổi bật trong bộ tự truyện "Tuấn, chàng trai nước Việt" (2 tập-1970) và cuốn "Văn Thi sĩ Tiền chiến" (1970). Điều thú vị khi ông không ít dịp đối đáp với các văn sĩ luôn thể hiện sự hóm hỉnh và dồi dào năng lượng. Có lần nhà thơ Tản Đà trách Nguyễn Vỹ: "Sao ông lại bảo Nhà văn An Nam khổ như chó? Ông so sánh nhà văn chúng ta với kiếp chó, mà ông không hổ thẹn à?". Ngay lập tức, cho dù bất ngờ, nhà thơ trẻ Nguyễn Vỹ trả lời: "Thưa cụ, nếu cháu so sánh nhà văn với chó, thì chó nó thẹn, chớ sao nhà văn lại thẹn?". Ông Tản Đà làm thinh nốc hết ly rượu rồi rưng rưng nước mắt.