Nhà thơ Giang Nam, tác giả bài thơ ‘Quê hương’ nổi tiếng, vừa giã biệt dương gian lúc 9h45’ ngày 23/1 (mùng 2 Tết Quý Mão) tại thành phố Nha Trang, Khánh Hòa.
Nhà thơ Giang Nam có
tên khai sinh Nguyễn Sung, chào đời ngày 2/2/1929 tại Ninh Bình, Ninh Hòa, Khánh
Hòa. Nhà thơ Giang Nam tham gia kháng chiến ở quê nhà từ năm 16 tuổi. Sự
chọn lựa đi với cách mạng đã
biến chàng trai Nguyễn Sung thành nhà thơ Giang Nam, như ông thổ lộ: “Tôi cầm bút viết thơ là điều chính tôi cũng không ngờ,
chủ yếu do tôi
không thể dằn lòng trước nỗi đau của bà con và nỗi đau của riêng mình”.
Chỉ với bài “Quê hương”, Giang Nam đã trở thành một
nhà thơ nổi tiếng. Đó là một sự may mắn không phải ai cũng có được trong nghề văn chương. Tuy nhiên, với Giang
Nam, giấc mộng thi sĩ giống như một sự sắp đặt ngẫu nhiên của số phận. Nhà thơ
Giang Nam sáng tác để có thêm vũ khí cho mình trên hành trình dấn thân “quốc
gia hưng vong, thất phu hữu trách” một cách chân thành: “Tôi thấm thía một điều,
cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là ngọn nguồn cảm xúc trong thơ tôi”.
Bài thơ “Quê hương” ra đời năm 1960 ở căn cứ Hòn Du, nằm phía tây thành phố Nha Trang. Bài thơ
“Quê hương” đậm chất tự sự, như được ghi chép rất thật thà về tâm trạng của tác
giả khi nghe tin người vợ của mình bị giặc bắt và đã hy sinh ở miền Nam.
Cả bài thơ “Quê hương” gồm 35 câu, kể lại một câu chuyện
dằng dặc nhớ thương giữa hai con người có chung nhiều kỷ niệm và có chung một
lý tưởng. Không khí yên ả và tâm tư trong sáng làm nền cho cả bức tranh “Quê
hương”.
Bài thơ “Quê hương”
khởi đi từ nét đẹp hồn nhiên “Tuổi còn thơ ngày hai buổi đến
trường/ Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ/ Ai bảo chăn trâu là khổ/ Tôi mơ
màng nghe chim hót trên cao/ Những ngày trốn học/ Đuổi bướm cầu ao/ Mẹ bắt được/
Chưa đánh roi nào đã khóc/ Có cô bé nhà bên/ Nhìn tôi cười khúc khích”, rồi đến
rung động thánh thiện “Cô bé nhà bên (có ai ngờ)/ Cũng vào du kích/ Hôm gặp tôi
vẫn cười khúc khích/ Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)/ Giữa cuộc hành
quân không nói được một lời/ Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại/ Mưa đầy trời
nhưng lòng tôi ấm mãi...”.
Và
đến hẹn thề thanh cao “Hoà bình tôi trở về đây/ Với mái trường xưa, bãi mía, luống
cày/ Lại gặp em/ Thẹn thùng nép sau cánh cửa.../ Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi
nhỏ/ Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)/ Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm
ngùi/ Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...”.
Ba mảng màu tươi tắn của “Quê hương” được khắc hoạ bởi điệu cười khúc khích. Ba đoạn thơ chỉ
mang tính thông tin, nhưng nhờ điệu
cười khúc khích mà lan toả thành ba ấn tượng đặc biệt!
Tuy nhiên, ba điệu
cười khúc khích không thể tạo ra bài thơ “Quê hương”, nếu không có giông tố đột
ngột: “Hôm nay nhận được tin em/ Không tin được dù đó là sự thật/ Giặc bắn em rồi
quăng mất xác/ Chỉ vì em là du kích em ơi/ Đau xé lòng anh chết nửa con người”.
Sự mất mát ấy gây bàng hoàng cho người đọc, và trở thành điểm nhấn để kỷ niệm
bay lên, lý tưởng bay lên, câu chữ bay lên, thả lơ lửng một bài thơ “Quê hương”
vào bầu trời thi ca Việt Nam giai đoạn chống Mỹ cứu nước!
Nhà thơ Giang Nam từng
đảm nhận cương vị Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, Chủ tịch Hội
Văn học Nghệ thuật tỉnh Khánh Hòa, Phó
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh
Khánh Hòa. Nhà thơ Giang Nam
đã được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
Những năm tháng nghỉ
hưu tại Nha Trang, nhà thơ Giang Nam vẫn đều đặn sáng tác và quan tâm đến đời sống
văn chương, với tâm tư: “Chúng ta hãy sống hết mình vì đất nước và
hãy loại bỏ những gì có thể hủy hoại hình ảnh đất nước. Nhà thơ rất cần chân thực,
bởi chỉ có chân thực với chính mình thì thơ mới có giá trị. Thơ là cái tôi
riêng, cái bản ngã của mỗi cá nhân và hãy nói tiếng nói của lòng mình, chứ đừng
dùng thơ làm sự tiến thân, làm trang sức cho mình... Tôi tin rằng, lớp trẻ sẽ
tìm ra những con đường, những ngả đường và khám phá mới cho thơ”.
TUY HÒA