Trong một bài thơ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi phải viết “Anh ôm em và ôm cả khẩu súng của em” mới được đưa lên được mặt báo. Chắc chắn nếu chỉ viết “Anh ôm em” thì chẳng báo nào, tạp chí nào dám sử dụng cả.


VỀ SỰ NHY CẢM MỘT THỜI, HAY LÀ CHUYỆN VĂN CHƯƠNG “LẠC KÈM BIA”

ĐẶNG HUY GIANG

Sinh thời, trong một bản thảo “Tuyển tập thơ Phạm Tiến Duật” do nhà văn Nguyễn Khắc Phục chủ biên, có bài “Lính mà em”. Sinh thời, Nguyễn Khắc Phục cho rằng Phạm Tiến Duật là tác giả của bài thơ này. Tuy nhiên, sau khi xem lại tập bản thảo đó, nhà thơ nổi tiếng của Trường Sơn đã khẳng định: Bài thơ này không phải của ông, mà của một nhà thơ nào đó ở Sài Gòn, viết trước 1975.

Vào thời điểm Nguyễn Khắc Phục nói thế, tôi đã không tin. Phần vì năm 1973, khi còn là bộ đội giải phóng, khi có mặt ở chiến trường B, tôi đã biết bài thơ này của Lý Thụy Ý và cũng biết bài thơ này đã được đăng tải trên Văn nghệ Tiền phong tại Sài Gòn năm 1967, đã in trong tập thơ “Khói lửa 20” tại Sài Gòn năm 1972. Phần vì ở thời điểm văn chương phải “lạc quan cách mạng” trên tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” không cho phép các nhà thơ miền Bắc xã hội chủ nghĩa dám hạ bút, dám viết những câu thơ thuộc diện cấm đoán hồi ấy: Em xót xa đời anh nhiều gian khổ.

Thơ ca của chúng ta ngày ấy, đặc biệt là ở giai đoạn chống Mỹ, chỉ toàn tâm toàn ý cho việc đánh giặc. Việc phản ánh chiến tranh, những chuyện của chiến tranh hoặc đụng chạm đến chiến tranh, những chuyện của chiến tranh là điều cấm kỵ. Tóm lại, chỉ cho phản ánh mặt sáng, không được phản ánh mặt tối.

Bằng chứng là vào tháng 6 - 1974 (sau khi đã ký kết Hiệp định Pa-ri), Tạp chí Thanh Niên có đăng 2 bài thơ: “Sẹo đất” và “Vòng trắng”, mới chỉ đụng chạm đến  hậu quả của chiến tranh một chút thôi, đã coi là nhy cảm, đã bị “thổi còi” rồi và Ngô Văn Phú lẫn Phạm Tiến Duật đều ít nhiều bị hệ lụy. Mấy câu bị phê phán nhất thuộc về: 

Tưởng trên da thịt mình mới sẹo

Ai ngờ đất cũng sẹo như người”

(“Sẹo đất”)

Và:

Bom nổ trên trời hiện lên những vòng đen

Nhưng mặt đất lại sinh bao vòng trắng...

Có mất mát nào lớn bằng cái chết

Khăn tang vòng tròn như một số không

 (“Vòng trắng”)

    Cách nay cũng đã lâu, có một nhà phê bình văn học đã dẫn bài thơ có tên là “Nga” để ca ngợi sự cách tân thi ca của Nguyên Sa. Để khẳng định sự này, nhà phê bình văn học nọ đã dẫn mấy câu thơ làm sở cứ:

"Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm

Như con mèo ngái ngủ trên tay anh

Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình

Để anh giận sao chả là nước biển…"

Cả 4 câu thơ trên, xét về mặt ý tứ, chẳng có gì ghê gớm. Có chăng còn lại là ý của hai câu sau: Giá anh là nước biển, chắc hẳn sẽ có tác dụng hơn với “đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình” của em - một biểu hiện về sự quan tâm về nỗi buồn của người mình yêu thương chăng?

Còn về mặt hình thức thì chẳng có sự cách tân cách tiếc gì hết, chẳng qua là tác giả được thả sức diễn đạt tự do cảm nhận của mình theo lối miền Nam một thuở. Công bằng mà nói, thơ Nguyên Sa hay, cho dù không cần cách tân.

Tôi nhớ nhiều câu thơ hay của Nguyên Sa: “Năm ngón tay có bốn mùa trái đất/ Chúng tôi cầm rơi mất một mùa xuân”, “Vẫn biết lòng mình là hương cốm/ Không biết tay ai là lá sen”. Trong khi ấy thì ở miền Bắc lúc ấy, trong một bài thơ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi phải viết “Anh ôm em và ôm cả khẩu súng của em” mới được đưa lên được mặt báo. Chắc chắn nếu chỉ viết “Anh ôm em” thì chẳng báo nào, tạp chí nào dám sử dụng cả.

Nói theo ngôn ngữ vỉa hè, hiện tượng này không khác hiện tượng “lạc kèm bia” thời bao cấp mấy nỗi. Thời ấy, vì bia hơi quá hiếm, nên các cửa nhà hàng ăn quốc doanh thường nghĩ ra trò bắt buộc mỗi khách hàng muốn mua một cốc bia phải mua kèm một gói lạc hoặc một đĩa nộm. Hãy thứ hình dung bạn có 10 cốc bia mà có đến 10 gói lạc hoặc 10 đĩa nộm thì quả là dư thừa “mồi”, nhắm làm sao cho xuể! Trong câu thơ trên của Nguyễn Đình Thi, “lạc” chính là “ôm cả khẩu súng của em”, còn “bia” chính là “Anh ôm em”.

Nhà thơ Quang Hoài nhớ lại: “Số 296 Báo Văn nghệ đăng 2 bài thơ đầu tiên dự thi cuộc thi thơ năm 1969 cùng nhà thơ Vương Anh. Hồi ấy, người ta tính nhuận bút theo trang tác giả. Với văn xuôi là 1000 từ và thơ là 20 câu. Bài thơ “Lá thư gửi anh” của tôi vì cũng dài nên được trả nhuận bút là 36 đồng. Số tiền này ngày ấy rất đáng kể nếu so với lương một kỹ sư là 64 đồng. Với tôi, chuyện này cũng vui. Nhưng tôi không hoàn toàn vui, vì khi biên tập, nhà thơ Vĩnh Mai cắt ngay câu mở đầu bài thơ này của tôi. Thay vì phải “Chưa được ngủ cùng em trọn tuần/ Chưa được nướng thịt con nai anh bắn” thì bài thơ được bắt đầu ngay bằng “Chưa được nướng thịt con nai anh bắn”. Có lẽ vì “ngủ cùng em” bị cho là sát sàn sạt và nhậy cảm quá chăng?

Trong khi ấy thì trước tôi, nhà thơ Bạc Văn Ùi đã có bài thơ “Em tắm” có những câu rất mạnh bạo: “Sao anh lại rình/ Trộm xem em tắm?”. Phải chăng “xem” vẫn còn nhẹ hơn “ngủ”? Phải chăng “Em tắm” đã được “chống lưng”, được “che chắn” bởi “Em tắm giữa suối mường/ Tắm trong mối yêu thương/ Có anh đang đứng giữ/ Chớ để Tây đến mường” và tác giả của bài thơ là người dân tộc ít người?”