Trăm năm Nobel trong lĩnh vực văn học đã tác động ra sao đến ý thức thẩm mỹ của công chúng, là nội dung cuộc tọa đàm diễn ra sáng 10/12 tại Nhà sách Cá Chép, TP.HCM.


Trăm năm Nobel, là một cách hình dung về giải thưởng Nobel được trao tặng từ năm 1901 đến nay. Trăm năm Nobel với nhiều tác giả và nhiều tác phẩm lừng lẫy, nhưng Nhà xuất bản Văn học và Công ty Đông A chọn 4 bộ sách tiêu biểu để giới thiệu đến độc giả.

Tọa đàm Trăm Năm Nobel - Giới thiệu tác phẩm & trò chuyện cùng dịch giả” được tổ chức tại Nhà sách Cá Chép (223 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1, TP.HCM) với ba khách mời dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng, dịch giả Nguyễn Quí Hiển và biên tập viên Đỗ Quốc Đạt Nhân.

Đối với người Việt Nam, giải Nobel văn học đã không còn quá xa lạ. Trước đây từng có những bộ sách khá công phu như “Các nhà thơ đoạt giải Nobel”, “Các nhà văn đoạt giải Nobel”, “Diễn từ Nobel”... Thậm chí, vài nhà văn Việt Nam còn không giấu được mơ ước sẽ có tên trong bảng vàng vinh danh của hội đồng Nobel.

Bộ sách Trăm năm Nobel được khởi động từ năm ngoái, đến nay ra được 4 ấn bản: Thi khúc & Thi phẩm của Sully Prudhomme (tác giả đoạt giải Nobel văn học năm 1901), “Tội ác của Sylvestre Bonnard & Đảo chim cánh cụt của Anatole France (tác giả đoạt giải Nobel văn học năm 1921), “Lịch sử La Mã (Tập I) của Theodor Mommsen (tác giả đoạt giải Nobel văn học năm 1902) và “Tuyển tập kịch Jacinto Benavente (tác giả đoạt giải Nobel văn học năm 1922).

Trăm năm Nobel không chỉ là một cuộc thống kê đơn giản mà còn thể hiện một khát vọng hội nhập của người Việt hôm nay. Muốn vươn cao và vươn xa thì không thể không tiếp cận những giá trị đã xác lập của nhân loại. Bộ sách “Trăm năm Nobel” mang đến cho công chúng những trang sách như thế nào?

Thi khúc & Thi phẩm” là tập thơ đầu tay của nhà thơ Pháp Sully Prudhomme (1839 - 1907). Năm 1901, ông trở thành người đầu tiên được trao giải Nobel Văn học “vì những giá trị văn chương xuất sắc, chủ nghĩa lý tưởng cao cả, nghệ thuật hoàn thiện và sự kết hợp tuyệt vời giữa tình cảm và tài năng”. Tập thơ được chia làm hai phần, bao gồm 103 bài nằm ở phần đầu Stances (Thi khúc) và 14 bài ở phần sau Poèmes (Thi phẩm). Sách được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Pháp với bản dịch mới của Trân Châu, Đạt Nhân và Khắc Đỗ.

Tội ác của Sylvestre Bonnard & Đảo chim cánh cụt” của tác giả Anatole France đoạt giải Nobel Văn học năm 1921. Đây là hai tác phẩm tiêu biểu cho hai thời kỳ sáng tác của nhà văn Anatole France, do dịch giả Trân Châu chuyển ngữ. Tiểu thuyết này được đánh giá ở văn phong tao nhã, mang chút châm biếm nhẹ nhàng, ý vị - phong cách đã trở thành đặc trưng cho văn chương Anatole France.

Theo dự kiến ban đầu của Theodor Mommsen, Lịch sử La Mã sẽ gồm 5 tập, từ khởi thủy của Roma cho đến thời hoàng đế Diocletianus (năm 305), khi Đế quốc La Mã bị chia cắt thành hai nửa Đông và Tây. Ba tập đầu (nội dung chia thành 5 “quyển”) được xuất bản vào các năm 1854, 1855 và 1856, với trục thời gian kéo dài đến trận Thapsus năm 46 trước Công nguyên và các cải cách của Julius Caesar.

Đến năm 1885, Theodor Mommsen xuất bản quyển sách được xem là tập V của bộ Lịch sử La Mã, mang tên Các tỉnh của Đế quốc La Mã từ thời Caesar đến thời Diocletianus. Đối với tập IV còn thiếu, tuy không viết, nhưng Theodor Mommsen vẫn soạn nhiều bài giảng liên quan đến thời kỳ Đế quốc La Mã nhằm giảng dạy tại trường đại học và được học trò ghi chép lại.

Đến năm 1992, 90 năm sau ngày Theodor Mommsen được trao giải Nobel, nhà sử học Đức Alexander Demandt cho xuất bản tập IV “phục dựng” của bộ Lịch sử La Mã dưới cái tên Römische Kaisergeschichte (Lịch sử Đế quốc La Mã). Bản tiếng Việt Lịch sử La Mã gồm 5 tập, được Đông A xuất bản lần lượt, do dịch giả Nguyễn Quí Hiển chuyển ngữ.



Tuyển tập kịch Jacinto Benavente gồm năm vở Thống đốc phu nhân, Đóa hồng giữa thu, Những ràng buộc lợi ích, Hoàng nữ bé con” và “Đứa con trái duyên. Năm vở kịch trong tuyển tập này đều là các vở được sáng tác trong thời hoàng kim của ông, đặc biệt bao gồm hai vở hay nhất là Những ràng buộc lợi ích(Los intereses creados) và Đứa con trái duyên (La malquerida). Năm vở đều được dịch từ tiếng Anh, dựa theo tuyển tập Plays by Jacinto Benavente, bản dịch của John Garrett Underhill, Nhà xuất bản Charles Scribner's Sons, năm 1917. Ấn phẩm Tiếng Việt được dịch giả Nguyễn Tuấn Linh chuyển ngữ.

Bạn đọc có thể thấy một Jacinto Benavente (đoạt giải Nobel văn học năm 1922) thấm đẫm tư tưởng tự do, thấu hiểu tâm lý con người, và đặc biệt tôn vinh phụ nữ. Các nhân vật nữ của ông thường chiếm vai trò rất quan trọng dù lấy bối cảnh ở giới thượng lưu hay giới lao động nghèo vùng thôn quê.

Hầu hết kịch của Jacinto Benavente lấy bối cảnh ở giới thượng lưu, tầng lớp người đầy hào nhoáng bên ngoài nhưng mục ruỗng bên trong mà ông đã quá quen thuộc vì sống với họ từ tấm bé, cùng với địa danh quen thuộc là thành phố Madrid, Tây Ban Nha. Nét đặc sắc ở kịch của Jacinto Benavente không những nằm ở nội dung mà còn nằm ở lời thoại và cách bộc lộ tâm lý nhân vật.

                                              PHẠM TUẤN