Nhà báo – nhà văn Thái Sinh qua đời chiều 6/11, hưởng thọ 69 tuổi. Trang viết Thái Sinh để lại gồm nhiều thể loại, nhưng ưu điểm nổi bật nhất là tất cả chữ nghĩa ấy chưa bao giờ ra ngoài sự trung thực của tác giả.
Trang viết Thái Sinh có phóng sự, bút ký, truyện ngắn,
tiểu thuyết và... thơ. Một gã đàn ông hào sảng đến mức người xa lạ có cảm giác
suồng sã, gai góc đến mức kẻ
khuất tất có cảm giác dữ dội, mà lại dan díu với thi ca ư? Khó tin quá, vậy mà
thật đấy. Thái Sinh đọc thơ rất tinh. Dạo còn công tác ở Hội Văn nghệ Hoàng
Liên Sơn, Thái Sinh đã là một tay biên tập thơ cự phách. Sau này, chuyển sang
làm báo, Thái Sinh chuyên tâm với phóng sự và ký sự, nhưng thỉnh thoảng vẫn len
lén có... thơ!
Nghĩ cũng lạ, một tờ báo ngành riêng biệt như Nông Nghiệp Việt Nam mà từng có hẳn một đội ngũ tác giả đủ để
thành lập chi hội nhà văn Việt Nam. Không chỉ có phóng viên kiêm nhà văn như Đỗ
Bảo Châu, Văn Chinh, Vũ Hữu Sự hoặc phóng viên kiêm nhà thơ như Nghiêm Thị Hằng,
Phạm Việt Thư, Lưu Trọng Văn mà có cả kế toán trưởng kiêm nhà thơ như Hoàng Trần
Cương.
Nhập vào không gian văn chương ấy, trang viết Thái
Sinh có thêm thơ cũng bình thường. Thái Sinh có những câu thơ vừa trữ tình bay
bổng “Mẹ tôi còng như dáng hình đất nước/ Hái sao trời cấy lúa bên bờ biển Đông”
vừa đau đớn thế sự “Mẹ bàng hoàng nhìn cánh đồng đang rên xiết/ Dưới những tòa cao ốc của lũ quan tham”.
Bên cạnh những day dứt “Đường về nhà đầy lũ ma trơi/
Chặn lối mẹ là lũ ma người”, trang viết Thái Sinh cũng có nhiều câu thơ mê đắm,
mà bài tứ tuyệt “Buồn” khá
tiêu biểu: “Nỗi buồn đổ xuống giếng khơi/ Giếng không lấp được, em lôi lên bờ/ Trách cho người ấy hững hờ/
Buồn em, em bán! Bây giờ ai mua?”.
Tuy nhiên, thơ chỉ giống
như phụ phẩm trang điểm cho trang viết Thái Sinh. Sở trường của Thái Sinh vẫn
là văn xuôi. Cuộc đời lắm bôn ba từ thời dạy học ở Than Uyên, Lai Châu đến thời
xuôi ngược viết báo khắp Yên Bái, Lào Cai đã giúp Thái Sinh có những trải nghiệm
phong phú để rút rỉa được nhiều chi tiết đắt giá.
Trong một nền báo chí
tự do hao hao một nền kinh tế chỉ huy, có những chuyện không thể phơi bày theo
hình thức thông tấn thì phải dành dụm chuyển tải qua văn chương. Lịch sử khi
chưa có điều kiện xuất hiện bằng thực sử thì được phép tồn tại bằng huyền sử, mà
đôi khi huyền sử lại có thể nuôi nấng và bồi đắp cho thực sử. Thái Sinh hiểu điều
ấy, nên ông chấp nhận đi cà kheo giữa hai vai trò nhà báo và nhà văn.
Thái Sinh thành thật
tự thú rằng, chính nghề báo đã mang lại thu nhập để ông chăm lo cơm áo gia
đình. Thế nhưng, có một điều Thái Sinh không nói ra là chính nghề báo cũng bổ
sung những chất liệu để ông theo đuổi nghề văn. Những tích lũy từ quan sát của
nghề báo đã làm đầy đặn trang viết Thái Sinh trong nghề văn.
Những tác phẩm ban đầu
của Thái Sinh chủ yếu viết theo phương pháp luận đề, chẳng hạn truyện ngắn “Con
sáo biết nói” trong tập “Thuyền lá”. Bỏ công huấn luyện cho con sáo nhưng rồi
con sáo bay mất, tác giả chỉ nhằm gửi gắm một thông điệp: “Thế
là giải thoát nó khỏi sự tù hãm và khỏi phải nói những lời nhạt hoét của con
người”.
Sau này, Thái Sinh nhận
ra ưu điểm của mình không nằm ở khả năng khái quát vấn đề hay đột phá ý tưởng,
nên ông lặng lẽ chỉnh sửa nhiều trang viết cũ. Ví dụ, chỉnh sửa lại truyện ngắn
“Người ngồi trước tôi hai hàng ghế” đã viết vào tháng 7/1992, hoặc chỉnh sửa lại
truyện ngắn “Rừng có nhiều hoa cúc dại” đã viết vào tháng 4/1996.
Sự thấu hiểu nông dân
khu vực miền núi của Thái Sinh đã cho ông nhiều truyện ngắn sinh động. Những số
phận con người nơi heo hút bước vào trang viết Thái Sinh có sự hồn nhiên lẫn sự
khổ ải, càng cơ cực thì họ càng nỗ lực lương thiện, dẫu bị vùi dập, dẫu bị đọa
đày. Truyện ngắn “Muôn thuở người ơi” viết về bản Khoanh hoặc truyện ngắn
“Trong cơn giông mùa hạ” viết về bản Na Ngo là kết quả cộng hưởng từ ánh mắt soi
rọi của nhà báo và chiêm nghiệm sâu lắng của nhà văn.
Thái Sinh thành danh ở
Yên Bái, nhưng quê quán ở xã Ngọc Tảo, huyện Phúc Thọ, Hà Nội. Thái Sinh thổ lộ
nơi chôn nhau cắt rốn: “Mẹ tôi bảo tôi sinh ra ở đất nhà trường,
nơi có cây trôi cổ thụ rất to và bên này đường là cây muỗm lớn. Cách xa làng
vài ba cây số, người ta vẫn còn nhìn thấy cây trôi đó vượt lên trên luỹ tre
làng. Nó là cây đánh dấu vị trí làng tôi, là nơi tụ hội của lũ trẻ trong làng,
nơi mùa hạ để mọi người ra đây hóng mát”.
Những ngày rong ruổi,
Thái Sinh bần thần: “Tôi vẫn không thể quên được bờ ô rô giăng đầy
dây tơ hồng, những trận mưa tháng mười nổi bong bóng cho lũ trẻ thi nhau ra đồng
bắt châu chấu, những đêm ngồi trên bậc cầu ao lát bằng đá xanh mát lịm nghe tiếng
sáo diều vi vút… Đấy là hồn quê, tình quê đã thấm vào tôi, thấm vào tâm hồn mỗi
con ngwời dẫu xa quê bao nhiêu năm vẫn không thể nào quên nổi”.
Sau khi nghỉ hưu,
Thái Sinh lấy địa danh Ngọc Tảo làm cảm hứng để sáng tác một truyện dài, hay
đúng hơn là những truyện ngắn liên hoàn, đặt tên “Chuyện làng Tào”. Dĩ nhiên,
làng Tào hay Ngọc Tảo chỉ là niềm thương nhớ, còn các nhân vật và chi tiết được
Thái Sinh gom nhặt suốt hành trình làm báo. “Chuyện làng Tào” thể hiện rõ nét
phong cách văn chương của Thái Sinh, trong sự trào lộng có sự đắng cay, trong nỗi
phẫn nộ có nỗi xót xa, trong lời giễu nhại có lời ngậm ngùi.
Những con người được
miêu tả trong “Chuyện làng Tào” như thằng Thụ, lão Tư Lâm, mụ Tuyền Bếp, đội
Nhung Khùng... đều không phải sản phẩm của trí tưởng tượng.
Thái Sinh chắp nối những mệnh kiếp lêu bêu và trớ trêu mà mình đã chứng kiến
khi làm báo, để xây dựng hình tượng văn chương.
Thái Sinh trút hơi thở
cuối cùng vào chiều 6/11/2022, sau mấy năm chống chọi bạo bệnh, hưởng thọ 69 tuổi.
Cả đời Thái Sinh dùng sự trung thực để cầm bút, cả viết báo lẫn viết văn. Sự
trung thực không phải dấu hiệu duy nhất để khẳng định một tài năng, nhưng sự
trung thực là thước đo ngàn vàng trên từng trang viết. Sự trung thực làm nên
trang viết Thái Sinh, và sự trung thực làm nên phẩm cách Thái Sinh.
LÊ THIẾU NHƠN