Nhà thơ Bùi Minh Quốc hồi tưởng: "Đến khi vào Đảng, may sao quyết định kết nạp ghi tên Bùi Minh Quốc, từ đấy tên ghi trong lý lịch với tên ký trên tác phẩm là một".
Ô cửa sổ trường Chu Văn An và nẻo thơ lên miền Tây
BÙI MINH QUỐC
Tôi được học ở trường Chu Văn An ba năm lớp tám, chín,
mười (8D, 9D, 10D) từ 1956 đến 1959, vào tuổi 16 - 19, cái tuổi tuyệt vời nhất
của cuộc đời.
Chính tại đây, một hôm nào đó, dưới bóng các cây cổ thụ
trùm tỏa khắp sân trường, tôi đã có bài thơ “Thật kỳ diệu khi mười tám tuổi” gửi
đăng báo Tiền phong, nay chỉ còn nhớ mấy câu này: Thật kỳ diệu khi mười
tám tuổi/ Cháu Bác Hồ, đồng chí của Lê-nin…
Đối với cái tuổi 18 của tôi, và chắc của cả thế hệ
tôi, làm cháu Bác Hồ, làm đồng chí của Lê-nin nghĩa là phải sống có lý tưởng,
là hiến trọn đời mình cho lý tưởng cao cả: Giải phóng dân tộc và giải phóng con
người; đất nước Việt Nam phải độc lập thống nhất và trên đất nước độc lập ấy mỗi
con người phải được tự do.
Học hết năm lớp 8 dưới tầng trệt, lớp tôi cùng tất cả
các lớp khối 9 chuyển cả lên gác. Khoái quá, mà khoái hơn nữa là tôi giành được
chỗ ngồi sát cửa sổ phía hồ Tây, vừa nghe thầy giảng vừa ngắm hồ thoải mái, vừa
tiếp nhận các định lý định luật vừa thả hồn theo mộng tưởng. Những bóng núi
xanh mờ bên kia con hồ mênh mang khiến tôi mơ màng đến Tây Bắc.
Chả là tôi vừa đọc trên báo Nhân Dân bài của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng có cái tên rất hay “Ngọc Tây Bắc” nói về tiềm năng quí báu của
Tây Bắc, quí như ngọc - cái giàu đẹp của miền Tây Tổ quốc ẩn tàng trong xa xăm
cách trở chưa mấy ai nhận ra, miền Tây đang từng ngày từng giờ mong ngóng những
con người, nhất là lớp trẻ tràn đầy nhiệt huyết của miền xuôi lên khai phá, dựng
xây. Càng chênh vênh, càng hiểm trở càng hấp dẫn. Tôi mong học cho chóng xong
trương trình phổ thông để được sớm lên đường.
Thế rồi năm học lớp 9 cũng qua. Bước vào đợt hoạt động
hè, chi đoàn khối 9 tổ chức cuộc thảo luận về hình tượng Pa-ven Cooc - xa -
ghin trong tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” - cuốn sách gối đầu giường của hầu
hết chúng tôi. Lữ Huy Nguyên (Nguyễn Huy Lư - 9B), bí thư chi đoàn bảo tôi chuẩn
bị bài phát biểu. Khi ấy tôi mới chỉ là cảm tình Đoàn thôi.
Tôi chuẩn bị không giống các bạn khác, nghĩa là không
phải bằng một bài phân tích bình luận mà bằng một bài thơ: “Gửi Pa-ven”. Bài
thơ khá dài dòng, nay tôi chẳng còn nhớ được câu nào, chỉ nhớ là đã “đăng” trên
báo tường của khối, tờ báo mà tôi cùng Lữ Huy Nguyên, Nguyễn Ngọc Ánh (9D), Đặng
Ngọc Lộc (9E) cùng bò ra trình bày rất công phu trên tấm giấy cơ-rô-ki trải rộng
cả một góc cái sàn gác gỗ nhà Đặng Ngọc Lộc ở phố Hàng Ngang...
Trở lại việc chuẩn bị cuộc thảo luận về Pa-ven, tôi
làm gần xong bài thơ “Gửi Pa-ven” thì bỗng trỗi dậy cảm hứng về chân trời miền
Tây, về nẻo đường lên miền Tây, một cuộc “Lên miền Tây” vụt hiện ra trong tưởng
tượng. Và trong lòng tự nhiên thầm vang hai câu thơ: Xe chạy nghiêng
nghiêng trèo dốc núi/ Lên miền Tây vời vợi nghìn trùng…
Sau này tôi được nhiều bạn lên Tây Bắc về kể lại: hễ
xe cứ bắt đầu bò lên một đoạn dốc một đoạn đèo là trong xe thế nào cũng có người
lẩm nhẩm ngâm ngợi “Xe chạy nghiêng nghiêng…”, có người còn chửi yêu “Mẹ cái
tay Quốc quái quỷ quái kiệt thật, chưa lên miền Tây mà tả cái con đường lên miền
Tây đúng thế!”.
Hai câu thơ như thể trời cho ấy tự nhiên thành hai câu
mở đầu, như có chất men kỳ lạ làm say chính tôi, làm bật ra cả mạch thơ bấy lâu
dồn chứa trong từng tế bào từng mạch máu từng nhịp tim cậu học sinh thủ đô 18
tuổi đang khao khát lên đường, khao khát tung cánh, khao khát xông pha.
Ôi miền Tây, ở dưới xuôi sao nghe nói ngại ngùng
Mà lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy
Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường
Sống ở thủ đô mà dạ để mười phương
Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn…
Những câu thơ tiếp đó theo nhau tự tìm đến, và tôi đã
làm xong bài thơ hình như chỉ trong một ngày. Hôm sau tôi sửa một số câu chữ rồi
chép sạch gửi cho tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Rồi những ngày đợi chờ hồi hộp, phấp phỏng. Bẵng đi cả
tháng, chả thấy gì. Hay là bưu điện làm thất lạc bài của mình? Có hôm tôi đã
mon men đến trước cổng nhà số 4 phố Lý Nam Đế - trụ sở tạp chí Văn nghệ Quân đội
- định đánh liều vào hỏi: “Các anh có nhận được bài thơ của em không?”, nhưng
nghĩ thấy ngài ngại lại lui chân phới luôn.
Có lẽ phèo rồi, thơ chẳng ra gì bị vứt sọt rác rồi! Giữa
lúc đang thầm tự bảo thế, thì bỗng nhận được thư, ngoài bì ở góc trên bên trái
có dòng chữ in sẵn VĂN NGHỆ QUÂN ĐỘI. Chắc họ đăng, nên gửi thư báo tin đây.
Run run bóc thư, mở ra thấy bên dưới các dòng in sẵn của
loại thư công tác là mấy dòng viết tay, nét chữ phóng khoáng với nội dung ngắn
gọn, đại ý: Rất hoan nghênh anh đã gửi bài cho tạp chí, nhưng rất tiếc bài thơ
chất lượng còn yếu nên chưa đăng được, mong anh tiếp tục hăng hái sáng tác và cộng
tác với Văn nghệ Quân đội, TM Tổ thơ, Lưu Trùng Dương.
Tôi đừ người vì hụt hẫng. Nhà thơ Lưu Trùng Dương đang
nổi tiếng trên thi đàn với những bài thơ về người lính. Ông ấy mà phán thế này
thì bài thơ đi tong thật rồi.
Tuy vậy tôi vẫn ngoan cố. Tôi chép một bản nữa gửi lại
cho Văn nghệ Quân đội, kèm một bức thư, đại ý: Em mới tập làm thơ, xin các anh
chỉ bảo giúp những chỗ yếu kém của bài thơ để em biết đường rèn luyện cho mau
tiến bộ.
Mươi hôm sau, nhận được thư, nội dung trả lời đại khái
thế này: Rất quý nhiệt tình sáng tác của anh, nhưng rất tiếc Văn nghệ Quân đội
không phải là nơi dạy làm thơ nên không giúp anh được, mong anh tiếp tục hăng
hái sáng tác và cộng tác. Ký tên Nguyễn Ngọc Tấn.
Đối với tôi khi ấy, ông Nguyễn Ngọc Tấn không nổi tiếng
bằng ông Lưu Trùng Dương, có đăng đôi bài thơ nhưng hình như viết văn là chính,
tôi chỉ mới được đọc vài ba cái truyện ngắn ông viết về đề tài bộ đội trong hòa
bình, không thấy hấp dẫn lắm.
Vẫn chưa hết ngoan cố, tôi chép một bản nữa gửi cho tạp
chí Văn Nghệ. Thật to gan. Bởi vì ở Hà Nội thời ấy chỉ có hai tờ tạp chí lớn là
Văn nghệ Quân đội và Văn Nghệ, mà Văn Nghệ là lớn nhất, oai nhất, dành cho mọi
đề tài và người đọc mọi giới, lại do toàn những nhân vật lẫy lừng phụ trách:
ông Đặng Thai Mai - Chủ tịch Hội Văn Nghệ Việt Nam làm chủ nhiệm, ông Nguyễn
Đình Thi làm tổng biên tập, ông Hoài Thanh làm thư ký toà soạn. Đến như nhà thơ
Xuân Diệu mà cũng chỉ làm tổ trưởng tổ thơ, riêng chi tiết này thì mãi lâu về
sau tôi mới biết.
Tôi gửi bài đi mà không chờ đợi, không hy vọng gì nữa
và cũng quên luôn. Tôi viết văn.
Đã vào niên khóa mới, 1958 -1959, lên lớp mười, năm cuối
cùng của bậc phổ thông.
Tháng 10 năm 1958, truyện ngắn “Cô thợ nề” của tôi được
đăng trên báo Văn Học, tờ báo của Hội Nhà văn. Có một chuyện ngồ ngộ, nhân tiện
xin kể luôn. Trước khi báo đăng, tôi nhận được thư của nhà văn Vũ Tú Nam, thư
ký tòa soạn mời đến tòa báo vào ngày ấy, giờ ấy.
Đúng ngày giờ đã hẹn, tôi đến trụ sở báo đặt tại tầng
hầm ngôi biệt thự đồ sộ ở số 51 Trần Hưng Đạo. Bước vào căn phòng tòa soạn nhỏ
xíu trần thấp tường đá dày bự như phòng giam, tôi gặp một người hơi cứng tuổi,
dáng lòng khòng, thâm thấp, ông bắt tay, hỏi tên tôi rồi hồ hởi mời ngồi:
- Quốc hả, trẻ quá nhỉ, mình là Kim Lân ở tổ văn xuôi
của báo, anh Vũ Tú Nam bận việc bên nhà in Lê Văn Tân, anh ấy dặn mình gặp Quốc,
cứ ngồi đây chơi rồi chốc nữa Quốc sang bên ấy gặp anh Nam, anh ấy rất muốn gặp
Quốc.
Ôi giời, thế ra cái con người xuềnh xoàng giản dị khiến
tôi cảm thấy dễ gần ngay từ giây phút đầu mới nhìn thấy đây chính là nhà văn
Kim Lân, nhà văn Kim Lân nổi tiếng với truyện “Làng”, với cái đoạn văn trích in
trong sách giáo khoa tả cảnh một cuộc phát giải thi chim ở vùng quê mà tôi được
học từ năm đệ thất tại một trường tư thục của Hà Nội bị Pháp tạm chiếm. Không
ngờ nay tôi lại được ngồi gần ông quá thể, lại được ông thân mật hỏi chuyện.
Ông hỏi tôi về gia đình, về việc học hành, về việc đã
viết cái truyện ngắn “Cô thợ nề” như thế nào. Có thế nào tôi kể thế. Bố tôi là
công chức lưu dung, ông có chuyên môn giỏi ngành xây dựng, được giao trông nom
việc thi công ở công trường xây dựng Bệnh viện Việt - Tiệp dưới Hải Phòng, dịp
nghỉ hè tôi xuống ở chơi với bố, rồi về viết truyện.
Trong truyện, tôi hoá thân thành một cô nữ sinh con
nhà tư sản Hà Nội học hết lớp mười cứ nhất quyết không chịu thi vào đại học dù
học rất giỏi, mà lại bỏ nhà đi công trường để rèn luyện trở thành một cô thợ nề.
Ông Kim Lân bỗng hỏi tôi:
- Quốc vào Đoàn năm nào?
Tôi lúng túng đỏ mặt, gãi đầu:
- Dạ, em sắp vào ạ, phân đoàn xét hai lần rồi, chắc
xét lần nữa thì được ạ.
Khổ quá, tôi được đưa vào diện cảm tình Đoàn đã mấy
năm nay, mà lần xét kết nạp nào cũng bị chê “còn thiếu khiêm tốn, còn nặng chất
tiểu tư sản, cần tiếp tục rèn luyện phấn đấu”.
Hai thằng bạn đoàn viên được phân công bồi dưỡng giới
thiệu tôi là Trần Quang Chấn (nước da ngăm đen nên có hỗn danh “Chấn noa”) và
Lê Ngọc Quế (đẹp trai trắng trẻo thư sinh nên có hỗn danh “Quế sữa”). Quế tuy
là con ông Lê Cường đại tư sản ở phố Hàng Bồ nhưng tiến bộ nhanh, được vào Đoàn
rất sớm.
Tôi chơi với Quế vì Quế không bao giờ vây vo lên mặt
“con nhà giàu học giỏi đẹp giai” như một số đứa khác, lại luôn tỏ ra mến mộ cái
sự giỏi văn của tôi. Khi môn tiếng Pháp bị loại khỏi chương trình ở trường, tôi
đến nhà Quế nhờ dạy riêng vào các buổi tối, Quế vui vẻ nhận lời ngay.
Chả là trước khi vào Chu Văn An, Quế học trường Tây,
đã từng theo bố sang Ba-lê, nên giỏi tiếng Pháp. Quế bảo mỗi lần đem trường hợp
tôi ra xét ở phân đoàn, Quế đều báo cáo đầy đủ những sự cố gắng rèn luyện của
tôi nhưng khi biểu quyết vẫn chưa được đa số đồng ý kết nạp nên đành chịu. Cả
tôi và Quế đều cùng ngầm ức cái đa số kia quá, làm sao mà tôi lại “nặng chất tiểu
tư sản” hơn Quế được, chính Quế cũng ức thay cho tôi.
Ông Kim Lân hỏi tiếp:
- Quốc biết những ngoại ngữ nào?
Tôi kể về tình trạng tiếng Pháp của mình.
Ông lại hỏi:
- Có biết tiếng Trung Quốc không?
Câu hỏi làm tôi ngạc nhiên.
- Dạ không ạ, em chưa học tiếng Trung Quốc bao giờ.
Ông gật gù:
- Chả là thế này Quốc ạ, cậu mới viết, mà cái “Cô thợ
nề” lại vào loại hơi chắc tay, mà vừa rồi chúng tớ bị một cú hớ, đăng cái truyện
ngắn của Trần Lanh, hóa ra cái ông Trần Lanh này biết tiếng Trung Quốc đem dịch
một cái truyện của Trung Quốc rồi ghi là của mình, nên tớ mới phải hỏi cậu kỹ
thế...
Một buổi chiều tháng 2 năm 1959, như mọi buổi chiều
tan học, tôi tha thẩn xách cặp đi dọc vỉa hè đường Quán Thánh về nhà. Theo thói
quen, tôi thường dừng lại trước một cửa hàng bán sách báo lẫn tạp hoá. Sau lớp
kính, lẫn giữa những cuốn sách dựng đứng, là một tờ tạp chí Văn Nghệ.
Tôi chú mục vào tờ tạp chí, xem thử số cũ hay số mới.
Số mới. Giải băng trên bìa màu hồng là mới. Cứ mỗi số in một giải băng màu khác
nhau, trên nền màu in tên các bài chính kèm tên tác giả. Tôi giật mình. Cái gì
kia, có thật không? Tôi dí mũi vào sát mặt kính, mở mắt hết cỡ. Bỏ mẹ, đúng rồi,
đúng là mình rồi. Lên miền Tây. Bùi Minh Quốc. Chữ đen, trên nền hồng.Tôi
vào hiệu sách, mượn tờ tạp chí vờ như xem qua để rồi mua. Mở ra mục thơ, đúng
là bài “Lên miền Tây” đã được đăng, và đăng trọn vẹn.
Không thể nào tả được niềm sung sướng của tôi lúc ấy.
Trong túi chẳng có xu nào. Tôi chạy như bay về nhà ở gần chợ Châu Long lấy
trong số tiền dành ăn quà sáng chạy ù trở lại hiệu sách mua tờ tạp chí. Ít hôm
sau, anh Thủy, liên lạc viên của cơ quan Hội và tạp chí, đem đến tận nhà trao
cho tôi tờ tạp chí có đóng dấu kính biếu kèm một phong bì đựng 8 đồng.
Những tám đồng, cho một bài thơ, tính theo đơn vị phở
ba hào/bát thì thật là một món tiền to đối với một gã học sinh mỗi sáng chỉ được
phép ăn 5 xu xôi ngô. Lần đầu tiên trong đời tôi được một khoản nhuận bút to thế.
Nói đến những món nhuận bút đầu đời thì phải kể thêm
chuyện này. Tôi làm thơ và có thơ đăng báo từ dạo mười hai mười ba tuổi, khi
đang học trường tư thục Phan Đình Phùng (nay là trường Phan Chu Trinh) trên đường
Nguyễn Thái Học ở Hà Nội bị Pháp tạm chiếm. Cùng lớp tôi có Nguyễn Đình Hồng,
Nguyễn Chí Cát cũng làm thơ. (Cát ơi, bây giờ ở đâu, từ thuở nghỉ hè 1954 phải
xa nhau chẳng có tin tức gì của bạn, mong sao những dòng này đến tay bạn).
Chúng tôi gửi bài và được đăng trên các báo Tia Sáng,
Giang Sơn. Tờ Giang Sơn còn mở cả một Trang Học sinh do nhà văn Thy Thy Tống Ngọc
phụ trách, chuyên đăng bài cho các tác giả chíp hôi say mê và tập tọng văn
chương.
Nguyễn Chí Cát không hay ký tên thật mà dùng bút danh
Suối Mơ. Tôi thấy cái trò ấy thú vị quá nên bắt chước, ngoài tên Bùi Minh Quốc
còn ký các tên Bùi Thị Ly Ly (vì đã sớm biết mơ màng bí mật lẽo đẽo theo gót một
em tên Ly học lớp dưới), Hồ Thị Bạch Lệ, Hoài Hương. Các bài được đăng, tôi
trân trọng cắt dán lên giấy cứng đóng thành tập, thỉnh thoảng đem ra đọc lại
và… ngắm, như các thiếu nữ hay tự ngắm mình trong gương.
Sau ngày giải phóng thủ đô, các anh tôi là bộ đội Cụ Hồ
từ Việt Bắc về, tôi sung sướng đem khoe. Ông anh thứ ba của tôi, sĩ quan công
binh, rất quân sự, và chính trị cũng hắc không kém, tính nóng như lửa, vừa liếc
qua đã quẳng xuống sàn nhà, quát: “Vứt ngay, văn hoá nô dịch! Văn hóa nô dịch,
vứt ngay, bây giờ là phải lao động, uốn cái lưng xuống, uốn cái lưng xuống!”.
Xấu hổ và uất ức quá, đêm ấy, nước mắt ròng ròng, tôi
đem đốt tuốt, để dứt khoát lập trường với quá khứ “văn hóa nô dịch” theo cái lệnh
chắc là rất chí lý của ông anh, mà lòng thì trĩu nặng như đưa tang thời niên
thiếu của chính mình.
Gần đây tôi mới được ông bạn thời sinh viên Nguyễn
Trung Thu (tác giả bài thơ “Đêm Trường Sơn nhớ Bác”) tiết lộ một chuyện loại
trinh thám hình sự: ủy viên ban chấp hành chi đoàn Nguyễn Trung Thu được chi bộ
giao nhiệm vụ bí mật điều tra xem Bùi Minh Quốc có phải là một phần tử cầm bút
suy đồi sa đọa ở Hà Nội thời Pháp tạm chiếm không.
Thu vào thư viện quốc gia tra cứu sách báo tìm đọc các
bài của tôi, về báo cáo: “Quốc không có vấn đề gì, các bài đăng báo đều lành mạnh”.
Hú vía. May mà gặp được thằng bạn tử tế, nếu lỡ gặp thằng xấu bụng, nó ghét
mình, nhân dịp ấy nó đắp tội cho mình thì toi đời.
Chíp hôi thì làm gì có nhuận bút, cái lệ của các báo
Hà Nội thời tạm chiếm là vậy. Không biết do đâu mà tự nhiên chúng tôi biết cái
lệ ấy, nên chẳng đứa nào dám nghĩ đến nhuận bút, thậm chí cũng không dám bén mảng
tới toà soạn để xin tờ báo. Được đăng báo là sướng mê tơi rồi.
Dạo ấy nhà tôi ở thuê đằng phố Hàng Bột. Sáng sáng,
tôi đi thật sớm ra cái gốc cây chỗ góc Văn Miếu trước cửa chợ Con Bò (tức là chợ
Giám), có một chị bán báo ngồi đấy. Tôi vờ muốn mua báo nhưng phải lướt qua
trang trong rồi mới mua. Hôm nào báo có bài mình thì nhịn ăn sáng mua ngay hai
tờ. Hôm nào không có thì không mua.
Cái kiểu ấy làm chị bán báo khó chịu lắm, tôi biết thế,
nhưng cứ lì mặt, hy vọng chị hiểu mà thương cho thằng học sinh nghèo. Tôi rất
muốn nói “em có thơ văn đăng báo đấy chị ạ”, nhưng không dám mở miệng khoe, ngượng
chết!
Từ sau năm 1954, tôi chỉ lo học, chẳng văn chương gì.
Mãi đến năm 1957 mới có một bài thơ đăng báo, mà lại là báo VĂN, cơ quan của Hội
Nhà văn. Với bài thơ này, lần đầu tiên cái tên Bùi Minh Quốc “tái xuất giang hồ”,
xin tạm gọi thế cho vui.
Theo nếp cũ thời tạm chiếm, tôi chẳng nghĩ đến nhuận
bút, cũng chẳng dám đến xin báo biếu, mà có biết tòa soạn tuần báo VĂN nằm ở
đâu! Nhưng tôi được nhận một khoản đối với tôi thuở ấy còn thích hơn nhuận bút,
ấy là bài thơ được đăng trong một cái khung gồm 2 bài, bên trái là bài “Một
ngày bình thường” của tôi, bên phải là bài “Những nét mặt” của anh Văn Cao.
Rồi tôi có thơ có văn đăng trên báo Quân đội Nhân dân.
Và bắt đầu có nhuận bút. Ngoài giờ học, tôi hay đi tha thẩn ra vườn hoa Hàng Đậu,
rồi đọc báo Quân đội Nhân dân dán trong cái khung gỗ dựng trước cổng toà soạn số
7 Phan Đình Phùng.
Một hôm tôi thấy bài mình được đăng. Nhưng cũng chả
dám vào hỏi. Ít ngày sau, nhận được giấy của toà soạn báo tin bài đã đăng và mời
đến số 7 Phan Đình Phùng nhận nhuận bút. Đây chính là món nhuận bút đầu tiên
trong đời. Nhận hai bài một lúc, một bài thơ và một bài ký. Bài thơ thì tôi
không còn nhớ, nhưng bài ký “Câu chuyện của anh bộ đội thủ đô” thì nhớ đại khái
là thuật lại việc anh Sự thành đội trưởng Hà Nội đến trường kể chuyện các anh
đánh Tây cho học sinh chúng tôi nghe. Hai bài được sáu trăm đồng (năm ấy chưa đổi
tiền).
Tôi chạy ù về nhà, quật nắm tiền xuống sàn nhà trước mặt
em gái tôi, oai vệ ra lệnh: sáu trăm lòng tiết canh, mau! Tôi lăn lộn dưới sàn
nhà, giãy giãy hai chân, cười sằng sặc, tay phất phất mấy tờ báo có đăng bài.
Mãi một lúc thật lâu em gái tôi mới hiểu nguồn cơn nào đã khiến ông anh nó phát
rồ như thế, và hiểu cái lệnh “sáu trăm lòng tiết canh, mau!”.
Nó chạy ra chợ Châu Long, lát sau xách về lòng lợn tiết
canh. Tất nhiên nó đủ thông minh để chỉ dùng một phần tiền thôi, bởi mua cả sáu
trăm thì làm sao mà hai anh em ăn hết. Vừa ăn tôi còn vừa hứng chí giở trò giả
vờ nhắm rượu, chốc chốc lại bắt chước bố tôi nâng cái chén lên tợp tợp, nhưng
chỉ là chén không.
Tin đồn xuống Hải Phòng đến tai bố tôi loanh quanh thế
nào mà biến thành chuyện cái thằng con trai mới 17 tuổi đầu của ông có được tí
nhuận bút thơ văn đã vung vít rượu chè, khiến cụ lo lắng phải tức tốc viết thư
quạt cho một trận.
Bố tôi ở Hải Phòng về chơi. Tôi khoe với bố tờ tạp chí
đăng bài “Lên miền Tây”. Đọc xong, ông cụ gật gù, khen 2 câu ở đoạn gần cuối:
Tuổi xanh ta xanh mãi với rừng xanh xanh tốt
Chí lớn ta chót vót Hoàng Liên Sơn
Cụ bảo, trong một câu dùng bốn chữ xanh mà không bị lặp,
thế là khá.
Bố tôi biết xem tử vi. Năm tôi mới lên bảy, ở quê, một
buổi chiều hai bố con ngồi bên nhau trên bậc gạch cổng nhà, tôi đang ngắm vầng
mặt trời to tròn đỏ lựng sắp lặn xuống sau đỉnh núi Cái xa xa trong dãy Hương
Tích Sơn, bỗng nghe bố nói: Bố đã lấy tử vi cho mày, số mày phát văn.
Bố tôi lại hỏi: Mày có thích cái tên Bùi Minh Quốc
không? Dạ thích, tôi đáp ngay, dù chưa hiểu hai chữ minh quốc nghĩa là gì, chỉ
cảm giác mang máng nó hay hơn cái tên Đa được đặt từ bé. Ít hôm sau bố đến nhà
ông chưởng bạ làm cho tôi giấy khai sinh mới mang tên Bùi Minh Quốc. Nhưng rồi
chạy loạn, giấy ấy bị mất, lục lọi tất cả hành lý may vẫn còn cái giấy khai
sinh cũ, lại trở lại tên Bùi Trường Đa để nhập học, khi lên trung học thường bị
lũ bạn quỷ sứ cứ nhè lúc có mặt bọn con gái là hét tướng lên giễu: Thằng
“vừa dài vừa nhiều!”, tức hộc máu mà không cãi được.
Đến khi vào Đảng, may sao quyết định kết nạp ghi tên
Bùi Minh Quốc, từ đấy tên ghi trong lý lịch với tên ký trên tác phẩm là một. Viết
đến đây, tôi nhớ bố quá chừng, bố ơi, bây giờ con biết chắc rằng bố giỏi tử vi,
vì cái năm con mới 7 tuổi ấy thì đã có chút biểu lộ nào về ý hướng văn chương
đâu?
Tháng 4 năm 1959, tôi được đi dự hội nghị những người
viết văn trẻ toàn miền Bắc, với vốn liếng chủ yếu là bài thơ “Lên miền Tây” và
truyện ngắn “Cô thợ nề”.
Mùa hè năm ấy, hết lớp 10, trong lễ ra trường của khối
10, tôi được cử lên mi-crô đọc “Lên miền Tây” tặng các bạn lớp sau.
Rồi bài thơ được đưa vào “Tuyển tập thơ Việt Nam 1945
- 1960” nhân dịp kỷ niệm
20 năm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được đưa vào phần bài đọc thêm trong
sách giáo khoa môn Văn lớp 7, lại trích 2 câu để ra đề thi tốt nghiệp cấp 2 năm
1961.
Rồi “Lên miền Tây” bị phê bình vì cái tội tác giả chưa
lên Tây Bắc mà đã làm thơ về Tây Bắc, mơ mộng viển vông muốn dựng lò đúc thép ở
Điện Biên. “Lên miền Tây” liền bị đưa ra khỏi sách giáo khoa...
Rồi nhiều bạn đọc trách tôi, vì đọc “Lên miền Tây” của
tôi mà họ hăng hái xung phong lên Tây Bắc, bị kẹt mãi trên ấy, có những cô gái
rất xinh đẹp rất giỏi giang mà không lấy được chồng. Các bạn ấy bảo, nửa đùa nửa
thật: Bắt đền ông đấy!
Các bạn ơi, đó là một câu chuyện dài của cả thế hệ
chúng ta, hẹn một dịp khác ta sẽ cùng nhau tiếp tục hàn huyên cho ra lẽ. Nhưng
tôi có thể nói ngay với các bạn thân yêu cùng thế hệ rằng, nếu phải đền cho các
bạn, thì tôi không có gì khác hơn để đền là chính cây bút này, cây bút đã viết
“Lên miền Tây”, đã viết “Tiễn người yêu đi học ở Mát-xcơ-va” (1962):
Hôn hộ anh nền đá lát Hồng Trường
Nơi yêu dấu Lê-nin từng dạo bước
Nơi trái tim ta hằng đi về thao thức
Dưới ánh vầng sao đỏ tháp Krem-lin
đã viết “Đất quê ta mênh mông”, “Mẹ chẳng thể nào nhớ
nổi con đâu”, “Bài thơ về hạnh phúc”… trong cuộc chiến đấu giành độc lập thống
nhất đất nước, theo đúng lý tưởng không có gì quý hơn độc lập tự do đã giục tôi
lên đường từ thuở tóc xanh.
Đi chiến đấu là niềm vui bất tận.
Đó là một câu trong “Lên miền Tây”.
Một câu gan ruột.
Đối với tôi, chiến đấu cho độc lập của dân tộc và tự
do của mỗi con người là niềm vui bất tận, thuở tóc xanh là thế, nay tóc đã bạc
phơ trên đầu cũng vẫn thế.
Từ hai mươi năm nay tôi sống và viết ở Đà Lạt, ở hẳn
đây luôn, mà Đà Lạt cũng thuộc miền Tây của dải đất hình chữ S thân yêu.
Hình như thơ nó vận vào người, các bạn nhỉ?
Đà Lạt, 21/9/2007
Nguồn: Tiền Phong