Paustovsky là một con tin của một thứ văn
chương tinh tế, không chỉ trong truyện ngắn, mà còn trong truyện vừa, tiểu thuyết,
hồi ký ...
NHÀ THƠ BỊ ĐÓNG ĐINH TRÊN CÂY THẬP TỰ GIÁ
CỦA VĂN XUÔI
Paustovsky đã viết truyện ngắn đầu tiên được
in khi ông học năm cuối trường trung học. Nhưng ông yêu thơ hơn văn
xuôi, trong sâu thẳm tâm hồn, ông tự cho mình là nhà thơ.
Bunin và Blok có ảnh hưởng đến Paustovsky mạnh hơn Chekhov và
Turgenev. Bunin thích sự ngay ngắn của từng từ, độ chính xác của mỗi câu.Blok,
ngược lại, thích cách nói lửng lơ bí ẩn,và những dòng chữ mà không thể thêm gì
vào đó. Paustovsky quyết định gửi những bài thơ của mình cho một trong hai người
để phán xét.
Và Paustovsky đã chọn Bunhin, người có vẻ
dễ tiếp cận hơn. Bunin trả lời bằng một tấm bưu thiếp, yêu cầu Paustovsky bỏ ý định
làm thơ, để viết văn xuôi. Paustovsky ngay lập tức và mãi mãi tuân theo, sau này thậm chí còn cố gắng
bắt chước nét chữ của bậc thầy (con trai cả của Paustovsky là Vadim, vài năm
trước khi nhà văn qua đời, đã tìm thấy tấm bưu thiếp đó và tin chắc vào suy
đoán về sự tương đồng của thư pháp). Một ca sỹ của thiên nhiên Nga là nhà văn Mikhail
Prishvin đã từng gọi một cách rất chính xác Paustovsky là “nhà thơ bị đóng đinh
trên thập tự giá của văn xuôi”.
Paustovsky nhỏ hơn Mikhail Bulgakov một tuổi
và cùng học tại Trường Trung học số 1 Kiev, muộn hơn hai lớp. Điều kỳ lạ:
Paustovsky được in lần đầu tiên vào năm 1912, còn Bulgakov phải bảy năm sau đó,
vào năm 1919.
Bulgakov bắt đầu viết tiểu thuyết “Bạch vệ
(1923–1924) khi Paustovsky đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên “Những người
lãng mạn” của mình (1916–1923), dẫn dắt câu chuyện vượt qua sự bối rối lặt vặt
của cuộc sống bán phóng túng trước chiến tranh và hậu phương của những bệnh viện
dã chiến trong Thế chiến thứ nhất đến đêm trước của Cách mạng Tháng Hai.
Bulgakov từ tiền tuyến trở về Kyiv vào mùa
xuân năm 1918, vô
tình trở thành nhân chứng cho tình trạng hỗn loạn ở đó. Trong khi ấy Paustovsky
"sống sót sau một số cuộc đảo chính ở Kyiv". Mặc dù trong tiểu thuyết
đầu tay của cả hai rõ ràng mang tính chất tự truyện, nhưng chúng rất khác biệt bởi
mức độ bao quát về con người và các sự kiện: nghệ sĩ- sử thi Mikhail Bulgakov từ
bỏ đam mê và rắc rối của chính mình cùng của những người khác;trong khi đó nhà thơ
trữ tình Konstantin Paustovsky để trí tưởng tượng cuốn hút bởi những gì tương hợp
với trải nghiệm cá nhân (nếu thứ chuộng lạ có chủ ý yêu thích từ thời thơ ấu sẽ
mờ nhạt, thì sự lãng mạn có họ hàng với thứ chuộng lạ kia sẽ ở lại mãi mãi),coi
tâm trạng phấn hứng cao là một trong những tài sản của chính mình cũng như của
thứ văn xuôi ông viết ra.
Các nhân vật của Paustovsky đều tốt và rất
tốt. “Khi tôi nghĩ xấu về mọi người, tôi không thể viết”- nhà văn đã thú nhận trong
tiểu thuyết “Những người lãng mạn”. Đối với người trong dòng họ Turbins, cũng
như đối với những tên côn đồ đã đột nhập vào thành phố của Bulgakov, Paustovsky
đơn giản ra là không dành cho những mẫu người này một dòng nào.
Và cung cách thuật chuyện của Paustovsky
cũng như phản lại chính người kể chuyện. Thay vì kể một dòng đời liên tục là các
đoạn ngắn, và mỗi đoạn được phân tách bằng một tiêu đề riêng (“Những người lãng
mạn”có 57 đoạn trong số 170 trang sách). Ngoài ra, có các câu riêng lẻ, như thường
thấy trong truyện ngắn, được trau chuốt một cách dễ thương, giống như những
viên sỏi nhỏ ven biển. Dưới đây là một vài ví dụ ngẫu nhiên:
“Mùa thu ở biển, mùa thu đen, như cô gái
ngâm mình trong mưa, đôi mắt tím biếc lấp lánh sáng”
“Tôi biết rõ sự run rẩy của tâm hồn”
“Phía sau những tán cây, chuyến tầu tốc
hành Siberian gầm rú, lao đi với một luồng lửa như thoát ra từ những ô cửa sổ”
“Tôi nhớ những đêm dài bên chiếc bàn đơn sơ,
giọng nói của Natasha, một ngày Sevastopol, hệt như một chiếc cốc thủy tinh chứa
đầy nước màu xanh”
“Đêm, buổi tối có mưa tuyết, và thị trấn
chìm trong bóng tối quánh đặc với những ánh đèn sũng ướt, già nua, đẫm nước mắt”
Turgenev đã mài dũa “Những bài thơ trong văn
xuôi” một cách điêu luyện thành bức tiểu họa thơ nổi tiếng, giống như một truyện
ngụ ngôn. Paustovsky là một con tin của một thứ văn chương tinh tế, không chỉ
trong truyện ngắn, mà còn trong truyện vừa, tiểu thuyết, hồi ký ...
Ông đã bị quở trách vì sự đẹp đẽ quá mức đối
với văn xuôi, về sự đa cảm, nhưng hình như bằng cách ấy, sự tự phát vô tận của
món quà thơ đã bùng phát. Có thể, nếu làm trái với lời khuyên của Bunin để làm
thơ, Paustovsky sẽ tự nhiên hơn.
Ngay từ thời còn ở trường trung học, Paustovsky đã bắt đầu
quan tâm đến địa lý, trong
đầu bùng cháy óc tưởng tượng của một khách lãng du tiềm năng, để có thể ngồi hàng giờ
trước những tấm bản đồ.
“Đi lang thang là điều tuyệt vời nhất trên
thế giới này- nhân vật thay mặt ông trong tiểu thuyết “Những người lãng mạn” khẳng
định - Khi bạn đi lang thang, bạn cao lớn thêm rất mau, và tất cả những gì bạn nhìn
thấy đều lắng đọng lại, ngay cả vẻ bên ngoài của chúng. Những người đã đi nhiều,
tôi nhận ra ngay lập tức, trong cả ngàn tôi đã gặp. Những cuôc du ngoạn rất
trong sạch, chúng đan cài những cuộc gặp gỡ, những thế kỷ, những cuốn sách và
tình yêu.Chúng như sinh đẻ ra chúng ta từ trên trời. Và nếu chúng ta đã nhận được
ngay cả thứ hạnh phúc chưa hề hề biết tới kể từ khi chúng ta chào đời, thì dường
như chúng ta vẫn cần phải nhận biết trái đất”.
Đối với người viết, điều quan trọng là hãy
kể về những gì anh ta đã thấy. “Hầu hết mọi cuốn sách tôi viết – Paustovsky khẳng
định- đó là những chuyến đi. Hay nói đúng hơn, mỗi chuyến đi là một cuốn sách”.
Khi còn là một cậu bé ở một ngôi làng
Ukraina, đến thăm ông của mình, cậu bé đã được biết thế nào là gió khô. Giống
như cơn thịnh nộ của Chúa, cơn gió này tràn xuống từ sa mạc Trung Á và trong
vòng hai nghìn km, gió biến mọi thứ xung quanh thành đống tro tàn xám xịt. Rất
lâu sau đó, Paustovsky tình cờ gặp nhà địa chất học Vasily Shatsky (trước đây
ông này đã từng làm việc ở Trung Á) và nghe ông ta kể về vịnh Kara-Bugaz đáng sợ
và bí ẩn, về trữ lượng vô tận của muối có giá trị nhất dưới làn nước vịnh mà việc
khai thác tốt sẽ có thể tiêu hủy cả sa mạc Caspian. Cơn bùng nổ bên trong của nhà
lãng mạn trùng hợp với đơn đặt hàng của xã hội hỗ trợ cho sự biến đổi căn bản của
tự nhiên.
Ngẫm nghĩ câu chuyện về sự làm chủ khu vực
sa mạc, nhà văn tìm một bản đồ chi tiết của biển Caspi và không rời khỏi vị
trí, bằng trí tưởng tượng nhà văn lang thang dọc theo bờ biển phía đông của Caspi.
Sau đó, ông chìm ngụp vào những cuốn nhật ký và hồi ký, sách và những cuốn ghi
chép của những người du hành, các cuộc khảo sát của những nhà địa chất, các bản
báo cáo thống kê, và chỉ sau đó mới đến Kara-Bugaz, nằm trên vĩ độ của Naples,
nhưng hừng hực sức nóng 65 độ, bị dày vò bởi những cơn bão cát ... Những bất hạnh
khác đang chờ đợi ở đó. Nhà văn nhớ lại tại Guryev (cách Biển Caspi 30 km về
phía bắc),ngay trước mắt ông bọ cạp cắn một kỹ sư, anh này đã chết một ngày sau
đó.
Để một nhà máy hóa chất mạnh có thể hoạt động
trên bờ vịnh (được thiết kế, trong số những thứ khác, cung cấp các điều kiện có
thể chấp nhận được cho cuộc sống của người lao động), cần phải tìm gần đó những
mỏ than, các nguồn nước ngọt, các giếng dầu mỏ và khí đốt. Paustovsky đã gặp gỡ
những người đam mê xây dựng, lắng nghe những trăn trở, những lời khuyên thiết
thực của anh em, làm quen với cuộc sống của đám dân du mục. Nghiên cứu các
phương pháp tiếp cận vịnh, ông đã bao quát ba nghìn km dọc theo vòng cung phía
bắc của Caspi.
Ông đã viết một truyện vừa "cần thiết"
nhanh chóng một cách đáng ngạc nhiên - trong có ba tháng, và mọi thứ diễn ra
đúng như mong muốn: một ông già người Thổ Nhĩ Kỳ sáng tác một huyền thoại về
Lenin; một phụ nữ bị đe dọa sẽ bị giết theo luật Sharia, đã được cứu mạng tại
quận ủy của đảng; những người theo phong tục trùm khăn kín mặt bị phán xét một
cách vô lý, nhưng tại phiên tòa, chị em xuất hiện trong bộ đồ Âu phục và không
cần khăn trùm đầu (phụ nữ địa phương ngậm miệng vào đầu khăn như một dấu hiệu
cho thấy họ không dám nói chuyện). Rõ ràng, những người lao động quên mình, những
người của một sự nghiệp lớn, và nói chung ra không có gì có thể ngăn cản họ
trong việc biến sa mạc thành yếu tố hỗ trợ cho nền công nghiệp xã hội chủ
nghĩa.
Có thể không quá thú vị, nhưng thiên truyện
vừa về đề tài sản xuất “nhắm trúng đích” này đã được Maxim Gorky thích, và các
nhà phê bình đồng tình ủng hộ.
Cùng với "Kara-Bugaz" (1932), Paustovsky
đã sáng tác truyện "Cokhida" (1933). Nếu ở biển Caspi, mọi người đã
chiến đấu anh dũng để tưới nước cho sa mạc không có sự sống, thì ở bờ Biển Đen
của Georgia, họ đã chiến đấu anh dũng không kém để làm cạn kiệt các đầm lầy.
Tác phẩm mới kết thúc với việc khai phá thành công một con kênh thoát nước, với
dàn nhạc,với pháo hoa và một bữa tiệc đông đúc. Bác kỹ sư già lập dị Pakhomov,
người trước đây từng nghĩ rằng mình sẽ không sống nổi để chứng kiến sự chiến
thắng của sức người chống lại thiên nhiên, giờ đây, ngưỡng mộ những kẻ chiến thắng,
đã nói một cách chân thành và vui vẻ:
-Các cháu là những Argonauts (các nhân vật
trong truyện cổ Hy Lạp). Cũng giống như Jason phát hiện ra bộ lông cừu vàng ở
Colkhida, vậy là bạn đã khai phá ra một vùng nhiệt đới.
Ông già không còn hoài nghi con người sẽ nắn
sông một cách thành công, trồng chanh ở được Siberia. (Liệu ông già này có sống
nổi để chứng kiến những nỗ lực thất bại trong việc trồng ngô ở vùng Bắc Cực
không?)
Nhuận bút đã cho phép tác giả của những
câu chuyện “bay lên mây” này phải ngừng
tay, rời khỏi công việc theo đơn đặt hàng, để chỉ còn tin tưởng vào chính mình`.
Sự công nhận chính thức đầu tiên (mười năm sau khi sách được viết ra)đã giúp
"Những người lãng mạn" bày trên quầy sách, khi còn chưa chưa nhìn ra
được chủ nghĩa cơ hội nô dịch; khi vẫn còn sôi réo những đam mê cháy bỏng. Cuốn
tiểu thuyết sớm nhất của Paustovsky vẫn chưa mất đi sức hấp dẫn của mình trong
mười năm hay một trăm năm tiếp.
Một lần, trong một cửa hàng tạp hóa ở
Bolshaya Dmitrovka, Paustovsky gói miếng pho mát trong một mảnh bản đồ cũ. Nhìn
chăm chú mảnh bản đồ, ông nhận ra không xa Moscow, ở phần giao nhau giữa sông
Oka và sông Klyazma là những khu rừng rậm rạp; những vùng hồ nước; những khúc
sông uốn lượn; những cánh đồng lút chìm trong nước, hầu như không được đánh dấu
bởi những con đường cỏ mọc um tùm, những khu đất hoang, những làng mạc, những
bìa rừng và thậm chí những bãi chăn nuôi gia súc. Ở đấy, tại vùng Meshchera,có
đủ tất cả mọi thứ mà ta từng mơ ước, những gì ta thiếu để cho cuộc sống hòa tan
vào thiên nhiên. Và, để cả thỏa thích sáng tạo trước thiên nhiên.
Những ấn tượng về phương nam của Paustovsky đã được phản ánh
(ngoài "Những người lãng mạn", "Kara-Bugaz" và "Colkhida")
trong cuốn tiểu thuyết "Những đám mây lấp lánh"(1928), truyện vừa
"Biển đen" (1935). Ký ức về miền bắc và tây bắc tràn ngập trong các truyện
vừa “ Số phận của Charles Launceville” và “ Mặt gương của hồ” (cả hai năm
1932), các truyện ngắn “ Sương mai ở Mikhailovskie” (1936), “ Đường ngọt” (1937)
và “ Thoáng gặp”(1953).
Màu sắc ồn ã của phương Nam, thứ ánh sáng
uể oải của những đêm trắng phương Bắc đều không thích hợp với sự cô đơn tập
trung mà năng động của nhà văn. Mặt khác, sự kín đáo, bình yên, vô cùng đa dạng
đúng lúc, đúng chỗ của vùng trung tâm nước Nga cũng không mang lại sự hài lòng
cho nhà văn:- thoạt đầu là ngôi làng Solotcha với các khu vực xung quanh ở trấn
Ryazan Meshchera, sau đó là làng Tarusa, trên sông Oka, ở rìa vùng đất Kaluga,
nơi sau này nhà văn thường xuyên ghé lui và đã sống trong một thời gian dài.
Ông mắc nợ hầu như tất cả những làng xóm,
những cánh rừng, những nhánh sông… ở những nơi ấy.
Vào đầu những năm 1930, Paustovsky đã dần
trả món nợ ấy bằng những truyện ngắn, truyện vừa, ghi chép của mình. Trong số
đó có “ Hướng Meshcherskaya” 1938), “Isaac Levitan” (1937), “ Chuyện về những
cánh rừng” (1948), “Những ngày hè”( 1940, “Những chú ong bạn bè”(1939), “Bình
minh mưa” (1945), “ Bức điện” và “ Đêm tháng mười” (1946)", "Ở sâu thẳm
nước Nga" (1950), "Hồ bơi Ilyinsky" (1964)…
Chỉ ở tuổi 70, Paustovsky mới có thể ra nước
ngoài, điều mà trước đây ông từng ao ước. Vào tháng 9 năm 1956, trên con tàu “Chiến
thắng”, nhà văn đã đi vòng quanh châu Âu đến với sáu quốc gia: từ Thổ Nhĩ Kỳ đến
Thụy Điển. Ở Naples, giữa vịnh, con tàu xếp hàng dài chờ neo đậu đến bến tàu.
Trong khi mọi người tỏ ý sốt ruột thì Paustovsky,
theo lời của một người bạn đồng hành, với vẻ mặt vui vẻ, từ trên boong tàu nhìn
ngắm dải ven biển dài tới 30 km với đảo Capri ở ngoại ô phía đông. Khó ai có thể
đoán được những suy nghĩ nào đã thu hút khiến vị “khách du lịch kỳ lạ” này trầm
trồ trước khung cảnh rộng lớn, biếc xanh của nước Ý.
“Toàn bộ sự sang trọng của Vịnh Naples với
bữa tiệc sắc màu của nó- nhà văn khẳng định- tôi chỉ cần bổ xung thêm một bụi
dương liễu ướt mưa trên bờ cát của sông Oka là sẽ khác hẳn”.
“Anh ấy có thể thủng thẳng đi bộ rất dễ
dàng, rất lâu trong một thời gian dài –Nhà văn Emili Mindlin nhớ lại- Nhưng bạn
luôn phải chuẩn bị tinh thần khi anh ấy sẽ đột ngột lao về nhà, đột nhiên bắt đầu
ra lệnh, đột nhiên như quên cả bản thân:
"Chúng ta phải bắt tay vào việc
thôi!”.
Tatyana Alekseevna, bà vợ của nhà văn cho
biết:
- Cảm ơn Chúa, những lúc như thế tôi thực
hiện ngay công việc và tìm được sự bình tĩnh trở lại.
Cả cuộc đời, Paustovsky viết về bản thân
mình theo từng mảng: trong truyện ngắn và tiểu luận, trong tiểu thuyết và truyện
vừa cho đến tác phẩm “Bông hồng vàng” (1955) - một cuốn sách về nghề viết, ở đó
đúc kết kinh nghiệm của hơn mười năm làm cố vấn tại Viện Văn học.
Sau khi đánh đổi sáu thập kỷ, Paustovsky
đã ngồi vào bàn với cuốn tự truyện cuối cùng "Câu chuyện cuộc đời" để
kéo dài thêm một chuỗi ký ức không đứt đoạn từ thời thơ ấu đầy rẫy ước mơ viết
lách đến việc hiện thực hóa những giấc mơ. Trải dài bốn thập kỷ, tác phẩm này gồm
sáu cuốn: “Những năm xa xôi” (1946), “Tuổi trẻ khắc khoải” (1954), “Khởi đầu của
một thời buổi chưa từng thấy” (1956), “Một thời của những ước mong lớn” (1958),
“Ném về phía nam” (1959
-1960), " Cuốn sách của những năm phiêu lãng" (1963). Tác giả còn có
ý định sẽ thêm hai tác phẩm nữa, đưa câu chuyện kể tới "ngày hôm nay"
của nó. Tập “Chương cuối cùng” hiện vẫn còn trong kho lưu trữ, mà rất có thể nhà
văn dự định sẽ dành cho phần kế thúc:
“Tôi không biết sống,không biết yêu, thậm
chí không biết làm việc. Tôi đã lãng phí tài năng của mình vào những suy ngẫm
không mang lại kết quả, cố gắng ép chúng vào cuộc sống, nhưng rồi chẳng có gì xảy
ra, ngoại trừ sự dằn vặt và sự lừa dối”.
Tất nhiên, thái độ tự trách móc nghiêm khắc,
thậm chí tàn nhẫn đến như vậy, nếu công bằng mà phán, chỉ là sự xét dưới ánh
sáng của những đích tới cao cả mà Paustovsky tự đặt ra cho mình.
TÔ HOÀNG
chuyển ngữ
(Theo báo “Văn hóa” Nga tháng 8/2022)