Thơ Thạch
Quỳ là thơ của một tác giả đến giai đoạn cao nhất của sáng tạo thi ca là “trực
ngôn”, rút tinh túy lòng mình ra để cắm sâu vào tâm trí người đọc - không phải
bằng những câu chữ ngọt ngào làm duyên làm dáng, bằng vần điệu du dương.
THƠ
THẾ SỰ TRONG CÕI MỐI, MỌT, GIÁN, CHUỘT, BÓNG TỐI…
MAI
AN NGUYỄN ANH TUẤN
Tôi
biết đến tên tuổi nhà thơ Thạch Quỳ từ hồi sinh viên văn khoa, từng đọc thơ
ông, nhưng lần đầu tiên mới được gặp ông tại một đám đông hội hè, giữa khu lưu niệm
Nguyễn Du - Nghi Xuân, Hà Tĩnh đầu năm 2019. Đó là một ông già gầy gò, người quắt
lại như lõi lim, đôi mắt sáng có vẻ hơi chế diễu nhưng không mất đi sự nhân hậu
đằm thắm…
Qua
sự giới thiệu của một nhà Kiều học là người Nghệ An, ông trịnh trọng bắt tay
tôi, và tặng cho tập thơ mới nhất của ông. Công việc lu bu mãi, cho đến những
ngày mưa dầm tháng bảy này, tôi mới giở tập “Người lặn biển” ra đọc, với lòng
Thương - Kính sẵn có đối với những “Ông đồ xứ Nghệ” là các thầy cũ của tôi, các
bậc đàn anh trong giới chữ nghĩa mà tôi quý mến, và các bạn tôi… Không hiểu
sao, sau khi lật giở vài trang, bài đầu tiên đập vào mắt tôi lại là bài: Mối, mọt,
gián, chuột, bóng tối…
Và
không hiểu sao nữa, những liệt kê của lão thi sĩ về các vật dụng trong ngôi nhà
“như nấm mộ” đó lại khiến tôi phải chăm chú chép lại, như bị thôi miên, không
thiếu vật gì:
“Mối,
mọt, bóng tối, chuột, gián, sách cũ, bàn gỗ, ghế gỗ, chai thủy tinh, bình gốm,
lọ sứ, cuội, đá, hoa khô, mẫu hóa thạch, tranh cổ, bùa, chú, xương, răng, vua,
quan, hình nộm và các loài bò sát đất nung từ thời tiền sử”.
Tôi
chợt nhớ đến nơi ở trống trải của Đại thi hào Nguyễn Du một thời, mà nổi bật nhất
chỉ là “cạnh gối có chồng sách vở đỡ tấm thân bệnh tật” (Chẩm bạn thúc thư phù
bệnh cốt. Tạp ngâm 2). Còn những đồ vật trong ngôi nhà Thạch Quỳ tuy có phong
phú hơn về chủng loại, song chỉ là những thứ đồ sưu tầm nhặt nhạnh của một trí
thức nghèo thời hiện đại chẳng đáng giá là bao vẫn làm bạn với mối, mọt, chuột,
gián, bụi… Và sự “liệt kê” này khiến tôi liên tưởng tới căn nhà dơ dáy với các
đồ vật nghèo nàn do thi sĩ Áo R. Rilke từng kể trong tuổi thơ chật vật, mà triết
gia M. Heidegger có trích dẫn lại để tìm đến cái “căn nguyên” (original) sự tồn-tại-trong-cõi-sống
của một tác giả trước khi có sự xuất hiện văn chương của ông.
Sau
sự “liệt kê” mang bóng dáng sự thực đó, là cuộc miêu tả sự sống hiện tại và quá
khứ của bản thân bằng biểu tượng Tình yêu không thành qua một vở kịch không lời,
một bộ phim câm đen trắng về một người đàn bà từ tuổi thanh xuân đến khi tóc bạc
trắng đến gõ cửa “nấm mồ”, nhưng “suốt bốn mùa im lìm đóng cửa”, và người thơ
có lúc tự tách mình ra để hỏi nhân vật trữ tình là chính mình:
“Ắng/
Lặng/ Như trong nấm mộ/ Còn thức/ Hay đã ngủ/ Còn sống hay đã chết/ Hỡi ông
già/ Trong ngôi nhà/ Suốt bốn mùa im lìm đóng cửa?// Người đàn bà yêu ông/ Từ
tuổi thanh xuân nàng đến đập cửa/ Tóc trắng trên đầu nàng đập cửa tìm ông/ Cửa
vẫn đóng/ Cánh cửa của nấm mồ không mở!”
Lại
thêm hai lần nữa tác giả lặp lại sự “liệt kê” đồ vật trót mang linh hồn của
ông, và hé mở cái sự thật vì sao ông từ chối cái mối tình đến điên cuồng của
người đàn bà:
“Mối
mọt, mọt, bóng tối, chuột, gián bình gốm, lọ sứ, cuội, đá, hoa khô sách cũ/
Trong ngôi nhà/ Người đi tìm tự do/ Đã tìm cách tự tù!// Trước ngôi nhà/ cuội,
đá, hoa khô, bùa, chú, xương, răng, vua, quan, bò sát đất nung, khủng long hóa
thạch…/ Người đàn bà/ Mang khát vọng tình yêu/ Đập cửa đập cửa đập cửa…”
Nhưng:
“Trong ngôi nhà/ Người đàn ông hóa đá”.
Có
thể trong đời ông đã từ chối một tình yêu có thực nào đó, nhưng ở đây cần hiểu
là ông đã từ chối những thú vui đầy cám dỗ của “đám đông”, để lầm lụi đi tìm Tự
do đích thực trong nhiều năm ròng, và khi không tìm thấy, khi tuyệt vọng, “Đã
tìm cách tự tù”… Bài thơ là một cách nói cực tả về thái độ “bất cộng đới thiên”
của ông với lối sống thực dụng, phù phiếm, giả dối; một lối cự tuyệt kiểu nhà
nho khí khái trước thói đời đi ngược lại quan điểm sống cố hữu của tác giả. Một
cách hành xử muốn học theo Khuất Nguyên: “Cả thiên hạ đều say, chỉ mình ta tỉnh”.
Một biểu hiện của người mang tâm sự thường trực: “Tôi cô đơn dưới đất/ Chúa cô
độc trên trời/ Thiên đường càng cô độc/ Mơ làm gì chúa ơi! (Thơ 5 chữ). Một phản
kháng của người có lúc tưởng mình phát điên: “Tuổi tác chồng lên, vui buồn dần
cạn/ Có thể về với thiên nhiên tìm chút thảnh thơi?/ Chưa giải tỏa sau lưng,
đám dây nhợ nợ nần đã hiện lên trước mắt/ Mây trắng bay mờ mịt cả chân trời!//Xương
máu để làm chi hở bạn/ Nếu tự do hạnh phúc không về/ Một nghìn năm rồi trăm năm
có lẻ/ Sông núi bàng hoàng hư thực máu xương kia!//Ta tỉnh thức hay ta ngây dại?/
Lặng im ta như bóng tối ngu hèn/ Tiếp tục nói cười, tiếp tục sống giữa mọi điều
sai trái/ Ta chưa điên cũng thể quá người điên// Tuổi tác trên đầu ngày một chồng
lên…” (Tuổi tác).
Cả
khi ông sống trong ngôi nhà “Tự tù” kia hay đi khắp nơi, bao giờ ông cũng bộc lộ
là một người yêu nước nồng nhiệt, người mang tinh thần Dân tộc thuần khiết: “Buồn
vui muôn năm cũ/ Vẫn trước mắt đó mà” (Hoa ngoài cửa sổ). Khi ngắm nhìn “Những
bông lau trên đỉnh Lão Sơn”, người thi sĩ đã quặn lòng: “Đất nước tôi nhành cây
ngọn cỏ/ Cũng nghìn năm xương trắng máu hồng” (Lau biên giới)…
Nhưng,
cũng bởi lòng yêu nước, lòng yêu dân tộc trở thành hòn đá thiêng trong tâm hồn
ông, ông đã nhiều lần phải trĩu lòng đau đớn trước thế sự… Ông đi trên một con
tàu, hết ga đầu lại về ga cuối, rồi tàu quay lại, ông tự hỏi: “Rằng ông già nghễnh
ngãng/ Đi đâu/ Và/ Về đâu?...” (Ông già nghễnh ngãng). Và ông cũng “chờ đợi”,
“một mình ngồi trên ghế đá mùa đông” (Bên tượng Puskin) giống như nhân vật của
Samuel Beckett “Chờ đợi Godot”… Trong lúc “chờ đợi”, có lần ông đã chứng kiến cảnh
này để liên hệ với cả một xã hội “giả vờ” im lặng khoanh tay trước cái ác, cái
phi lý hoành hành: “Bọn trấn lột lên tàu/ Cả toa tàu im lặng/ Người giả vờ đọc
sách/ Người giả vờ nhìn ra/ Người giả vờ cúi đầu/ Người giả vờ quay mặt/ Người
giả vờ nhắm mắt/ Người giả vờ ngủ gật/ Tất cả đều giả vờ/ Chỉ trấn lột là thật”
- trong lúc đó, “Con tàu vẫn băng lên/ Lầm lì đi trong đêm” (Toa tàu). Trong
khi đi và chờ đợi, ông đã chứng kiến bao chuyện cười ra nước mắt, như cảnh: “Ngỡ
như người chăn vịt thì sẽ nói về kỹ thuật chăn vịt/ Nhưng họ vẫn thao thao bất
tuyệt/ Về các địa tầng, thủy tầng trong đáy các đại dương…” (Người lặn biển);
đã mục sở thị bao chuyện đau xót đáng phẫn nộ, như chuyện: “Cuộc thí nghiệm kéo
dài non thế kỷ/ Kéo thêm kỷ nữa, chắc gì đã xong/ Họ hàng nhà chuột bạch/ Tiếp
tục bị cấy ghép, bị tiêm chích, bị mổ xẻ, bị nhiễm khuẩn, bị nhiễm trùng, nhiễm
thuốc độc/ Con mù mắt, con suy tim, con loạn thần, con lăn cù cù, con xoay lòng
vòng, con co giật/ Thương thay loài chuột bạch/ Không biết nói như người/ Để có
thể kêu lên!” (Chuột bạch), như chuyện: “Tự úp lên đầu chiếc mũ/ Hình bán cầu/
Gói gọn thế giới trong tầm mắt/ Nhìn xa từ 4 đến 10 cây số!” (Từ 4 đến 10 cây số),
như chuyện về những anh chàng “sáng bóng com-lê, cà-vạt” nhưng thực ra chỉ “Là
cái loa để phát/ Những mệnh đề di ngôn/ Những lời nói gói sẵn” khi “đang quay mặt
trước sự thật” và “Thum thủm bốc mùi” (Mùi cổ lỗ), và đau đớn nhục nhã nhất là
cái “Trật tự tủ lạnh” đang được thực thi, còn “Dưới tín hiệu dùi cui, tất cả lộn
tùng phèo/ Có phải ta đã trọn đời phục vụ chân lý?/ Tên sen đầm hất hàm hỏi tiếp/-
Vâng, thưa ngài, Chân Lý Dùi Cui!” (Chân lý dùi cui)…
Những
bài thơ ngắn của ông vừa mang bóng dáng ưu thời mẫn thế của các thi sĩ-nho gia
thời Trung - Cận đại, vừa chất chứa bao niềm suy tư trăn trở về thời cuộc, về lẽ
sống, về lý tưởng của một Công dân trong thời đại mới: “Đôi khi buồn chẳng biết
làm chi/ Ngồi lặng lẽ nhìn mưa ngoài cửa sổ/ Bụi mưa ướt mờ nhoè khung kính cửa/
Lá ngô đồng rỏ nước khóc ngày đi…” - “Những lý thuyết đạo đức chưa bị nghi ngờ/
Những tư tưởng vì sao tư tưởng đó?/ Có chén rượu, ta e dè ngọn gió/ Biết gió
lành, gió độc thổi về đâu…” - “Chúi mũi, dụi đầu vào cát/ Thuyền như con bọ chết
trương nằm/ Biển dọc miền Trung đầy cá chết/ Dặm dài không một bóng ngư dân…” -
“Buồn vui theo lịch xé rồi/ Khóc cười thì đã khóc cười từ lâu/ Như người lạc giữa
sông Ngâu/ Vô tâm sợ viết thành câu vô tình/ Nghêu ngao mình nhại thơ mình/ Vẫn
e có kẻ đang rình trộm nghe!...” - “ “Cái gọi là Chân lý khách quan/ Đã biến
thành Ông quan chân lý” - “Tôi chiến đấu không bao giờ chiến thắng/ Với nỗi buồn
lẩn quất trong tôi/ Nhưng nỗi buồn/ Là thù hay bạn? Tôi hỏi tôi/ Tôi không dễ
trả lời!” (Những bài thơ ngắn) - “Khi con chó bỏ đi/ Nồi cám đã trống rỗng// Ấy
là lúc vịt gà ngan, ngỗng/ Cất tiếng reo mừng khúc hát tự do// Khi chúng có tự
do// Cám trong nồi đã hết!” (Tự do) - “Đêm đen đến vô vọng/ Ngày trắng đến vô
cùng// Tiếp tục sự vô ích/ Lại viết thêm mấy dòng… (Nhật ký 15/7/2018).
Nhưng
đằng sau những nỗi chua chát có không ít âm hưởng bi quan, đau đớn, ta vẫn thấy
nụ cười hóm hỉnh và niềm tin yêu cuộc sống & con người của tác giả, nhất là
những thông điệp âm thầm mà gay gắt về Đạo lý của một người thơ “Không lá,
không hoa, cây còn cái lõi/ Thơ lõi lim - Tặng phẩm lúc lim già…”
Thơ
ông là thơ của một tác giả đến giai đoạn cao nhất của sáng tạo thi ca là “trực
ngôn”, rút tinh túy lòng mình ra để cắm sâu vào tâm trí người đọc - không phải
bằng những câu chữ ngọt ngào làm duyên làm dáng, bằng vần điệu du dương; sự thật
là ông đã không để lọt vào thơ mình một câu chữ nào của các “hoạn quan trữ
tình” (Maiacovski) đang đầy rẫy trong thơ ca Việt hiện đại…
Bài
thơ hay nhất trong tập “Người lặn biển”, theo tôi là bài thơ “Đói”, mang đậm
“chất Thạch Quỳ” - bài thơ còn mang tính thời sự lâu dài, và nói hộ được nỗi niềm
của nhiều người Việt Nam đã/ đang trải qua những sóng gió đời thường và lịch sử:
ĐÓI
Tớ
nói thật, tớ có tài nhịn đói
Nhịn
từ tuổi thiếu niên qua tuổi trung niên
Bát
cơm trắng như giấc mơ cổ tích
Trong
chiêm bao thường vẫn hiện lên
Tôi
nhịn đói hơn sáu mươi năm có lẻ
Rồi
quen đi, không đói nữa ngày nào
Cái
cảm giác thèm ăn dần biến mất
Bát
cơm trắng ngày nào cũng biến mất khỏi chiêm bao
Giờ
nếu bạn mời tớ vào cuộc nhậu
Tớ nể
tình ngồi lại, tớ không ăn
Xin
bạn hãy cảm thông cho tớ
Cả một
đời nhịn đói đã quen thân
Và
cũng vậy, tự do, tình yêu…
những gì nữa nhỉ
Với
đời sống tinh thần tựa nước uống cơm ăn
Nhưng
chẳng lẽ, như dạ dày của tớ
Trái
tim người đói mãi cũng thành quen…?
Tôi
xin thay mặt những người đọc nói chung, người yêu thơ nói riêng trước hết cảm
ơn nhà xuất bản Nghệ An đã làm “bà đỡ” cho tập thơ giản dị, gai góc song đầy
rung cảm này được ra đời, sau đó là cảm ơn thi sĩ “lão thực” Thạch Quỳ - một
bông hoa quỳ bằng đá quý hiếm trên xứ Nghệ!