Chẳng ai có thể dạy làm thế nào để đọc được những cuốn
sách vĩ đại và viết được những cuốn sách vĩ đại cả. Và đó là lý do tại sao tôi
rất ngưỡng mộ những tác phẩm đó. Bởi vì thông thường, những cuốn sách vĩ đại là
những cuốn sách chứa đựng tham vọng.
NHÀ VĂN NGUYỄN THANH VIỆT: TÔI CHỈ QUAN TÂM ĐẾN NHỮNG
CUỐN SÁCH VĨ ĐẠI
ĐÀO LÊ NA
Tôi đã gặp nhà văn Nguyễn Thanh Việt vài lần
trong chuyến công tác tại Mỹ nhưng lần nào anh cũng bận rộn với các buổi nói
chuyện và các sự kiện văn học nên chúng tôi chưa thể trò chuyện nhiều hơn.
Trong các buổi nói chuyện của anh mà tôi có dịp tham gia, tôi biết anh rất quan
tâm hỗ trợ các nhà văn người Mỹ gốc Việt và các nhà văn Việt Nam xuất bản sách
bằng tiếng Anh tại Mỹ. Do đó, để hiểu rõ hơn tình hình văn học Việt Nam tại Mỹ,
tôi đã hẹn anh một buổi trò chuyện trực tuyến với những trao đổi thẳng thắn, cởi
mở về các vấn đề liên quan đến văn học và Việt Nam.
@ Việt
Nam quan trọng với anh như thế nào?
Nguyễn Thanh Việt: Tôi sinh ra ở Việt Nam và rời đi lúc 4 tuổi.
Tôi lớn lên trong cộng đồng người Việt tị nạn. Tôi nghĩ rằng việc sinh ra ở Việt
Nam giúp cho tôi có sự gắn bó với đất nước này. Và bởi vì tôi lớn lên giữa cộng
đồng người Việt nên tôi đã hấp thụ cảm xúc và thái độ của người Việt Nam. Tôi
có rất nhiều sự đồng cảm với người Việt Nam, cả ở Việt Nam, ở Mỹ và cộng đồng
người Việt hải ngoại. Tôi nghĩ rằng văn hóa và lịch sử Việt Nam là một phần của
tôi. Và tôi cảm thấy mình có nghĩa vụ phải viết về điều đó.
Tuy nhiên, điều rất quan trọng mà tôi cần nhấn mạnh là
tôi thấy người Việt Nam có xu hướng nghĩ văn hóa Việt Nam bằng một thuật ngữ thể
hiện tính xác thực (authenticity). Họ có quan niệm rất cứng nhắc về những gì tạo
nên người Việt Nam, cho dù ở Việt Nam, hay trong cộng đồng người tị nạn. Tôi
hoàn toàn không đồng ý với định nghĩa của họ, tôi nằm ngoài định nghĩa đó. Mặc
dù tôi nói rằng tôi rất kết nối với Việt Nam, và Việt Nam rất quan trọng đối với
tôi, văn hóa rất quan trọng đối với tôi nhưng tôi không phải là nhà văn Việt
Nam.
Tôi là nhà văn Mỹ. Tôi không biết có bao nhiêu người
Việt Nam hiểu được điều đó. Khi họ thấy ai đó là người Việt Nam, họ sẽ hỏi anh
là người Việt phải không? Tôi nói đúng vậy. Nhưng tôi là một nhà văn Mỹ. Và
cách tôi nói về Việt Nam, văn hóa Việt Nam và lịch sử Việt Nam là thông qua lịch
sử và quan điểm của tôi về Hoa Kỳ. Và tôi cảm thấy rằng sự tranh đấu của tôi với
tư cách là một nhà văn diễn ra trước hết là ở Mỹ, và sau đó là ở thế giới
phương Tây. Nhưng tôi rất hy vọng người Việt Nam sẽ đọc tác phẩm của tôi. Thách
thức ở đây là nhà nước Việt Nam có những cảm xúc khá lẫn lộn về tác phẩm của
tôi. Điều đó cũng làm tăng thêm khó khăn khi được coi là một nhà văn Việt Nam.
Bởi vì tôi không biết liệu người Việt Nam có coi tôi là một nhà văn Việt Nam
hay không. Nếu có thì thật tuyệt còn nếu không cũng không sao cả. Nhưng dù nhà
nước Việt Nam và những người Việt Nam có thích tôi hay không, tôi vẫn coi mình
là người Việt Nam. Và tôi vẫn coi tất cả những điều này rất quan trọng đối với
tôi.
@ Anh
xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay khi đã 44 tuổi và có rất nhiều thành tựu
trong công việc nghiên cứu, giảng dạy văn chương, do đó không tránh khỏi sự chú
ý của rất nhiều nhà phê bình. Anh có cảm thấy áp lực khi cuốn sách được xuất bản
không?
Nguyễn Thanh Việt: Tôi nghĩ có lẽ tất cả các nhà văn đều cảm
thấy lo sợ mọi người sẽ đánh giá tác phẩm của họ. Trong trường hợp của tôi, cuốn
The Sympathizer (tạm dịch: Cảm tình viên) dù là tiểu thuyết đầu tay nhưng đã là
cuốn sách thứ ba của tôi được xuất bản. Cuốn sách đầu tiên là sách học thuật.
Cuốn sách thứ hai của tôi là Người tị nạn đã được dịch sang tiếng Việt. Tôi viết
cuốn Người tị nạn cách đây hơn 17 năm rồi và khi viết cuốn sách đó, tôi rất lo
lắng không biết mọi người sẽ nghĩ gì về nó. Đến lúc viết tiểu thuyết, tôi không
còn quan tâm người khác nghĩ gì về công việc của mình, cả người Mỹ lẫn người Việt.
Vì vậy, tiểu thuyết của tôi được viết từ một nơi tôi gần
như hoàn toàn tự do, tự do khỏi sợ hãi, tự do khỏi lo lắng, tự do khỏi những bận
tâm về kỳ vọng của người khác, đó là lý do tại sao tôi nghĩ đây là một cuốn
sách rất chân thực đối với tôi. Tôi nghĩ rằng nó chân thực vì không phải được
viết ra từ không gian của nỗi sợ hãi nên đã tác động đến nhiều người ở cả khía
cạnh tích cực lẫn tiêu cực. Nhưng, điều đó không sao cả. Tôi nghĩ điều quan trọng
cần nhấn mạnh, đó là một cuốn sách rất trung thực, một cuốn sách đầy sự tức giận.
Và sẽ có những đánh giá và phản ứng của riêng độc giả trước sự trung thực và sự
tức giận đó.
@ Khi
đọc các tác phẩm của anh, tôi luôn nhận thấy có sự lưỡng phân giữa rất nhiều vấn
đề: chẳng hạn như nhân tính và phi nhân tính, giọng điệu riêng và giọng điệu tập
thể, nhân vật đứng ở điểm nhìn bên này và bên kia… và điều đó dẫn đến việc có rất
nhiều người cực kỳ thích tác phẩm của anh nhưng cũng có những người không
thích. Đây có phải là phong cách mà anh theo đuổi trong các tác phẩm tiểu thuyết
của mình?
Nguyễn Thanh Việt: Tôi không nghĩ rằng tất cả các cuốn sách đều
dành cho tất cả mọi người. Khi cầm một cuốn sách lên, tôi đọc trang đầu tiên
trước và nếu tôi không thích trang đầu tiên, tôi không dành thời gian để tiếp tục
đọc cuốn sách đó. Và nếu có người nào đó không thích sách của tôi, có lẽ họ đã
đưa ra quyết định đúng đắn. Tôi nghĩ rằng bất kỳ cuốn sách nào mà tác giả thực
sự chân thực và cam kết với một phong cách rất riêng, sẽ tìm thấy những người
yêu và ghét tác phẩm của họ. Tôi thà để mọi người yêu và ghét tác phẩm của tôi
hơn là chỉ thích nó.
Tập truyện ngắn “Người
tị nạn” có lẽ dễ tiếp cận
hơn với nhiều người vì lối viết của nó. Còn The Sympathizer là tác phẩm mang
phong cách đặc biệt hơn nhiều, và phần tiếp theo của nó là The Committed (tạm dịch:
Kẻ tận tụy) cũng vậy. Tôi đã viết những cuốn tiểu thuyết theo cách đó, bởi vì
văn phong không thể tách rời khỏi nhân vật, người kể chuyện, vấn đề chính trị
và thẩm mỹ. Tôi viết những cuốn tiểu thuyết này bởi vì tôi muốn đọc những cuốn
tiểu thuyết như vậy. Tôi đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những nhà văn, những người
có phong cách rất đặc biệt. Và khi tôi đọc những tác phẩm đó, chúng để lại dấu ấn
lớn trong tôi, không phải chỉ vì câu chuyện, mà còn là văn phong. Tôi cũng muốn
độc giả của tôi tiếp cận ở những cấp độ như thế này. Nếu tôi mất độc giả trên
đường thì cũng dễ hiểu thôi.
@ Vậy
độc giả của anh thường ở những độ tuổi nào? Anh có thấy các tác phẩm của mình rất
khó để độc giả trẻ tiếp cận không?
Nguyễn Thanh Việt: Tuổi tác có liên quan gì không nhỉ? Ý tôi
là, tôi có những độc giả ở độ tuổi 70 và 80, những người đủ lớn để nhớ về cuộc
chiến ở Việt Nam và những người đã ở Việt Nam, với tư cách là người Việt Nam hoặc
người Mỹ. Và tôi đã có những độc giả trẻ chỉ mới 13 tuổi. Điều vui mừng đối với
tôi là được nhìn thấy những độc giả nhỏ tuổi, những độc giả ở trường trung học.
So với những độc giả lớn tuổi, những độc giả ở trường trung học và đại học thực
sự phản hồi tiểu thuyết của tôi khá tốt. Tôi thấy điều đó đáng khích lệ khi những
độc giả trẻ tuổi có tư duy cởi mở hơn. Và điều tôi muốn nhấn mạnh là dù bạn viết
một cuốn sách thách thức đến đâu, bạn cũng sẽ tìm được nhiều độc giả.
Tôi muốn nâng tầm
bằng tiểu thuyết của mình và chứng minh rằng độc giả có thể đi cùng mình nếu bản
thân cuốn tiểu thuyết hấp dẫn. Và điều này đúng với The Sympathizer nhưng đúng
một phần vì nó đã nhận được một cú hích lớn từ giải thưởng Pulitzer nên có nhiều
độc giả đến với nó hơn. Nhưng tất cả những gì tôi muốn nói là luôn có độc giả
cho những cuốn tiểu thuyết nghiêm túc và đầy thú vị.
@ Nhân
đề cập đến giải Pulitzer, tôi được biết anh hiện là thành viên hội đồng
Pulitzer người Mỹ gốc châu Á đầu tiên, là giám khảo giải thưởng văn học The
Dayton Literary Peace Prize… Vậy tiêu chí để tuyển chọn một tác phẩm văn học
hay của các giải thưởng này nói chung và của bản thân anh nói riêng là gì?
Nguyễn Thanh Việt: Tôi đã giành được những giải thưởng này và
hiện tôi cũng làm việc trong hội đồng và ban giám khảo để trao giải. Vì vậy, tất
cả những gì tôi có thể nói là các tiêu chí rất linh hoạt. Và việc xác định ai
đoạt giải thưởng văn học chỉ đơn giản là nhóm người nào sẽ đánh giá giải thưởng
đó? Tôi đã từng tham gia các giải thưởng, các ủy ban giải thưởng, nơi tôi cho rằng
mọi cuốn sách được giải thưởng đều xứng đáng. Nhưng điều đó không có nghĩa là
không có những cuốn sách xứng đáng khác cùng thể loại đó trong cùng năm đó. Tôi
không thể cung cấp bất kỳ tiêu chí nào, bởi vì không có khuôn mẫu để xác định
cuốn sách nào sẽ được trao giải.
Còn riêng tôi thì tôi không quan tâm lắm thế nào là một
tác phẩm hay (good book). Tôi nói điều này ở Mỹ chứ không phải ở Việt Nam vì ở
Mỹ chúng tôi có các chương trình viết sáng tạo có thể dạy mọi người viết. Vậy
nên tiêu chí cho những cuốn sách hay nằm ở đó. Những cuốn sách hay nên có những
nhân vật tốt, cốt truyện tốt, chủ đề thú vị, lối viết tinh tế. Tất cả những điều
này có thể được dạy. Nhưng chẳng có gì trong số các điều đó tạo ra được một cuốn
sách vĩ đại (great book). Tôi chỉ quan tâm đến những cuốn sách vĩ đại. Chẳng ai
có thể dạy làm thế nào để đọc được những cuốn sách vĩ đại và viết được những cuốn
sách vĩ đại cả. Và đó là lý do tại sao tôi rất ngưỡng mộ những tác phẩm đó. Bởi
vì thông thường, những cuốn sách vĩ đại là những cuốn sách chứa đựng tham vọng.
Còn một cuốn sách hay thì bạn có thể không mắc bất kỳ
sai lầm nào nhưng cũng có thể bị lãng quên hoàn toàn. Có rất nhiều sách hay
ngoài kia. Còn những cuốn sách vĩ đại đôi khi mắc lỗi, đôi khi khiến mọi người thấy
yêu và thấy ghét. Những cuốn sách vĩ đại thường khó hiểu. Những cuốn sách vĩ đại
sẽ có nhiều tham vọng, những cuốn sách vĩ đại có thể mắc sai lầm nhưng những cuốn
sách vĩ đại khiến tôi tập trung chú ý cao độ và có thể ghi nhớ trong quá trình
đọc. Đó là điều tôi quan tâm.
@ Được
biết anh đã thực hiện nhiều chương trình, dự án ủng hộ các nhà văn Việt Nam và
các nhà văn người Mỹ gốc Việt. Vậy vị trí của văn học Việt Nam trên thế giới hiện
nay ra sao?
Nguyễn Thanh Việt: Việt Nam vẫn là một nước nhỏ. Và khi bạn
là một đất nước nhỏ, thông thường văn học của bạn có phạm vi tiếp cận nhỏ. Tôi
không phán xét Việt Nam. Tôi chỉ đơn giản nói những gì tôi nghĩ về việc mô tả vị
trí của Việt Nam trên thế giới, so với một quốc gia như Mỹ. Mọi người trên khắp
thế giới đọc văn học Mỹ, không phải vì văn học Mỹ nhất thiết phải tuyệt vời
nhưng vì Mỹ hùng mạnh về mặt chính trị và kinh tế. Đó là một đất nước rộng lớn,
và nó có thể xuất khẩu văn học của mình ra khắp thế giới giống như cách nó xuất
khẩu vũ khí. Vì vậy, đối với tôi, sự nuôi dưỡng không thể tách rời văn học. Văn
học là nghệ thuật, nhưng văn học không chỉ là nghệ thuật mà còn là một bộ phận
của xã hội mà nó hình thành. Vì vậy trong trường hợp của Việt Nam, vấn đề của
văn học Việt Nam không thể tách rời thực trạng đất nước, xã hội và vị thế của
Việt Nam trên thế giới.
Riêng tôi, tôi không chọn trở thành một nhà văn Mỹ,
tôi không chọn viết tiếng Anh, đơn giản là tôi không có sự lựa chọn. Nhưng có một
thực tế, khi tôi là một nhà văn Mỹ viết bằng tiếng Anh, khi Cảm tình viên thành
công thì cuốn sách đó đã được tiếp cận rộng rãi trên toàn thế giới hơn nhiều
tác phẩm văn học Việt Nam đã làm. Không hẳn vì bất cứ điều gì vốn có trong tôi
hay cuốn sách, mà bởi vì nó là một cuốn tiểu thuyết Mỹ, được giải thưởng của Mỹ.
Sức mạnh của Mỹ khiến cho mọi người trên toàn thế giới quan tâm đến nó. Vì vậy,
khi bạn hỏi tôi điều gì đang xảy ra với văn học Việt Nam, tôi đưa ra lập luận
này.
Tôi đang nói rằng văn học Việt Nam phải được xem xét
trong mối quan hệ với tất cả các động lực mạnh mẽ này, đó là lý do vì sao việc
quảng bá cho các nhà văn Việt Nam quan trọng đối với tôi vì chúng ta cần làm mọi
thứ có thể để giúp đỡ lẫn nhau. Và bạn biết đấy, trong bối cảnh của Hoa Kỳ, những
nhà văn Mỹ gốc Việt là thiểu số (minority). Do đó chúng tôi không phải là một
phần của cơ chế của văn học Mỹ. Bạn phải làm điều gì đó như giành được giải thưởng
Pulitzer, trước khi bạn trở thành một nhà văn, một công việc mà mọi người cạnh
tranh với bạn ở Mỹ vì là một nhà văn người Mỹ gốc Việt, bạn thuộc bộ phận thiểu
số.
Bây giờ, trong trường hợp của Việt Nam, nếu bạn là một
nhà văn Việt Nam, bạn không phải là một thành phần thiểu số. Nếu tôi ở Việt
Nam, và tôi là một nhà văn Việt Nam, tôi sẽ là đa số (majority), phải không? Vì
tôi là người Kinh. Nhưng tôi sẽ là một nhà văn đa số của một đất nước nhỏ, và
do đó, tác phẩm của tôi vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn để vươn ra thế giới. Vì vậy,
nếu tôi có thể giúp các nhà văn Việt Nam ở Việt Nam, tôi cũng sẽ làm. Đúng, bởi
vì chúng ta đang phải đối mặt với một thách thức khi trở thành một phần của một
quốc gia nhỏ, hoặc là một bộ phận thiểu số ở một quốc gia hùng mạnh. Như tôi sẽ
được gọi là bộ phận thiểu số. Tôi nhận ra rằng ở Mỹ, giá trị của văn học được
hiểu là một giá trị cá nhân. Nói cách khác, ở Mỹ, các nhà văn viết cho chính họ,
điều đó cũng tốt thôi nếu bạn là người da trắng. Nhưng nếu bạn là một thành phần
được cho là thiểu số, như là người Việt Nam hay người châu Á, và nếu bạn chỉ
tham gia công việc viết lách này cho chính mình thì chúng ta sẽ không giúp đỡ
được ai cả.
Vì vậy các bạn của tôi và tôi đã thành lập Mạng lưới
văn nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại (the Diasporic Vietnamese Artists Network), bởi
vì chúng tôi bác bỏ quan niệm chủ nghĩa cá nhân trong văn học. Chúng tôi tin rằng
chúng ta phải đoàn kết với nhau để hỗ trợ lẫn nhau. Trước hết, chúng tôi cam kết
hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam hải ngoại, nhưng chúng tôi cũng quan tâm đến Việt
Nam vì chúng tôi có sự kết nối ở đó và chúng tôi đến từ đó. Chúng tôi cũng cố gắng
hết sức để quảng bá văn học Việt Nam. Chúng tôi đang cố gắng để xây dựng mối
quan hệ với văn học Việt Nam, đọc nhiều tác phẩm văn học Việt Nam vì chúng tôi
có thể dịch nó sang tiếng Anh.
@ Mọi
người thường nói rằng: Việt Nam là một đất nước chứ không phải một cuộc chiến
vì đã có quá nhiều tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam rồi. Anh có nghĩ rằng,
thực tế các tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam vẫn chưa đầy đủ và chúng ta
nên có thêm các tác phẩm viết về đề tài này hay chúng ta nên khai thác nhiều chủ
đề khác?
Nguyễn Thanh Việt: Cả
hai. Bởi vì, chúng ta nên để các nhà văn cho dù họ ở Việt Nam, ở Hoa Kỳ hay ở bất
cứ đâu được tự do viết về bất cứ điều gì họ muốn. Tôi thấy những nhà văn Mỹ gốc
Việt trẻ viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, kỳ ảo, lãng mạn… không liên quan
gì đến Việt Nam và cũng không liên quan gì đến chiến tranh. Cùng lúc đó, khi người
đại diện của tôi gửi The Sympathizer đi thì một bộ phận của ngành xuất bản New
York nói là chúng tôi không muốn có thêm tiểu thuyết Chiến tranh Việt Nam nữa,
chúng tôi đã có nhiều lắm rồi. Không ai muốn đọc tiểu thuyết về chiến tranh Việt
Nam nữa.
Và cảm giác của tôi là không ai muốn đọc đi đọc lại những
cuốn tiểu thuyết về Chiến tranh Việt Nam của những người đàn ông da trắng kể về
cùng một câu chuyện. Điều đó không có nghĩa là câu chuyện về Chiến tranh Việt
Nam đã cạn kiệt, nó chỉ có nghĩa là một loại câu chuyện kiểu như vậy đã cạn kiệt.
Vì vậy The Sympathizer theo quan điểm của tôi, là một cuộc tấn công trực tiếp
vào Hoa Kỳ và vào tiêu chuẩn của văn học Mỹ về chiến tranh Việt Nam, giữa những
thứ khác. Trong trường hợp của văn học Việt Nam, tôi nghĩ rằng có rất nhiều tài
liệu về chiến tranh ở Việt Nam, chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, điều đó không có
nghĩa là không có chỗ cho nhiều hơn, bởi vì có thể còn rất nhiều điều để nói,
cho dù mọi người có thể nói những câu chuyện này hay không, họ nghĩ ra những câu
chuyện khác hoặc xuất bản chúng như một vấn đề khác.
Nhưng nếu xem The Sympathizer là tiểu thuyết Việt Nam
theo nghĩa rộng viết về chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, tôi nghĩ nó thực sự
nói lên điều gì đó khác với những gì đã thấy trong văn học Việt Nam. Vì vậy, chỉ
vì chiến tranh là một chủ đề cạn kiệt ở cả Việt Nam và Hoa Kỳ không có nghĩa là
những câu chuyện mới không thể được kể và những câu chuyện mới không nên được kể.
Nó có nghĩa là chúng ta phải suy nghĩ về những gì chưa được kể với những gì
chưa được phép kể. Ở Hoa Kỳ, chúng tôi có sự thuyết phục thụ động (passive
persuation). Nói cách khác, tại sao The Sympathizer lại là một cuốn tiểu thuyết
nguyên bản (original novel)? Không phải vì người Mỹ gốc Việt không được phép viết
mà là chúng tôi bị thuyết phục không viết về những thứ nhất định, như chiến
tranh, với tư cách là người Mỹ gốc Việt.
Chúng tôi được phép viết về những người tị nạn, viết về
những người thiểu số nhưng chúng tôi không được trông đợi sẽ viết về chiến
tranh theo cách của những người lính Mỹ da trắng. Và đó là một kiểu thuyết phục
thụ động mà chúng tôi không chấp thuận. Chúng tôi là người Mỹ gốc Việt không chấp
thuận. Từ việc viết về đất nước nói chung, The Sympathizer là một cuốn tiểu
thuyết về chiến tranh Việt Nam nhưng tôi nghĩ nó cũng nói rất nhiều về Mỹ, và
có thể nói rộng ra là về Việt Nam. Tôi thực sự không biết những độc giả Việt
Nam nghĩ gì về cách miêu tả Việt Nam trong cuốn tiểu thuyết này, nhưng tôi rất
tự tin khi nói về những gì cuốn tiểu thuyết viết về nước Mỹ.
@ Là
một người rất bận rộn với nhiều vai trò như giáo sư, nhà nghiên cứu, diễn giả,
tác giả báo chí và các dự án cá nhân, làm sao anh sắp xếp được thời gian để
sáng tác?
Nguyễn Thanh Việt: Tôi có 4 trợ lý, họ đã giúp tôi quản lý tất
cả các khía cạnh khác trong cuộc sống của mình, và như thế tôi mới có thời gian
để viết nhiều thứ. Tôi đã mất 2 năm để viết tiểu thuyết đầu tay và mất 4 năm để
viết phần tiếp theo. Và sau đó tôi cũng mất vài năm để hoàn thành bản thảo đầu
tiên của một cuốn sách phi hư cấu. Khi viết tiểu thuyết đầu tay, tôi đã viết mỗi
ngày, vì lúc đó không ai biết tôi là ai nên không ai làm phiền tôi. Bây giờ,
tôi bị làm phiền rất nhiều, có rất nhiều thứ khiến tôi mất tập trung nên tôi đọc
bất cứ khi nào có thể. Và tôi nghĩ bài học quan trọng cho các nhà văn là nếu bạn
có thể viết mỗi ngày thì thật tuyệt, còn nếu bạn không thể viết mỗi ngày, đừng
trừng phạt bản thân, điều quan trọng là bạn phải tiếp tục viết.
Tôi đã nói với mọi người rằng tôi đã mất 10.000 giờ viết
lách để trở thành một nhà văn. Nếu viết 4 tiếng mỗi ngày, tôi sẽ trở thành
một nhà văn nhanh hơn nhiều. Nhưng tôi đã mất 20 năm. Vấn đề là tôi đã dành
10.000 giờ cho viết lách. Vì vậy, để trở thành nhà văn, hãy dành 10.000 giờ cho
công việc đó. Bạn có thể làm điều đó trong 4 năm, 10 năm, 20 năm hay thậm chí
là 40 năm. Nhưng nếu bạn không thể dành ra 10.000 giờ, bạn không thể trở thành
nhà văn. Tương tự như vậy, sau khi tôi đã hoàn thành 10.000 giờ của mình, tôi
tiếp tục làm thêm nhiều giờ nữa. Điều duy nhất để trở thành một nhà văn là tiếp
tục quay trở lại công việc viết lách cho dù bạn làm điều đó hàng ngày hay bất kỳ
thời gian nào. Với một cuốn sách phi hư cấu, tôi viết 2 hoặc 3 tháng một lần.
Và sau đó tôi phải nghỉ ngơi, giảng dạy, đi nói chuyện và tất cả những thứ
khác. Vì vậy, nó chán đấy, nhưng, hầu hết các tác phẩm viết lách là về sự chán
nản.
@ Tôi
đã gặp nhiều bạn trẻ người Mỹ gốc Việt chia sẻ rằng họ cảm thấy khó khăn khi kết
nối với Việt Nam vì những rào cản về ngôn ngữ và văn hóa. Theo anh, có cách
nào để kết nối hoặc tìm kiếm những vấn đề chung để chia sẻ với nhau không? Văn
học có phải là cách tốt nhất để kết nối với Việt Nam hay có những cách nào
khác?
Nguyễn Thanh Việt: Tôi không thích những câu hỏi về căn tính
(identity) vì chúng buộc mọi người phải chọn căn tính. Tôi có nhiều căn tính.
Vì vậy, tôi ổn khi là một nhà văn Mỹ gốc Việt, một nhà văn Mỹ, một nhà văn quốc
tế, và một nhà văn. Tôi không gọi mình là nhà văn Việt Nam vì nếu tôi nói vậy sẽ
có ngàn người Việt Nam nói rằng ông ấy không phải là nhà văn Việt Nam. Khi bạn
bắt đầu hỏi mọi người về căn tính của họ, sẽ rất phức tạp vì mọi người áp đặt
căn tính của họ lên những người khác. Tôi yêu người Việt Nam nhưng người Việt
Nam rất hay phán xét (judgmental). Và họ rất hay phán xét khi nói đến văn hóa
và căn tính. Rất nhanh chóng để họ nói rằng: anh chị là người Việt Nam hay
không phải người Việt Nam.
Người Mỹ lúc nào cũng gọi tôi là nhà văn Mỹ gốc Việt.
Tôi không có vấn đề với điều đó. Họ nói nhà văn người Mỹ gốc Việt – Việt Thanh
Nguyễn nhưng khi nói về người khác, họ chỉ nói tên của nhà văn. Rất nhiều người
như vậy. Khi được hỏi câu hỏi về căn tính, mọi người nói rằng họ gặp nhiều trở
ngại để trở thành người Việt Nam, họ không biết cái này, họ không biết cái kia,
họ tự nhận lỗi, giống như họ là người có lỗi. Điều này là sai. Nếu là ở Mỹ,
cách thể hiện của người Mỹ sẽ kiểu như là: Ôi, tội nghiệp cho anh quá! Anh đang
bị giằng xé giữa Đông và Tây, anh bị giằng xé giữa người Việt Nam và người Mỹ.
Còn người Việt Nam sẽ nói: Ồ, anh bị lạc đường rồi! Tệ quá, anh không phải là
người Việt Nam, anh đã bị tẩy trắng ở phương Tây rồi. Điều đó là đổ lỗi cho cá
nhân nhưng lỗi không phải ở cá nhân, lỗi là ở chủ nghĩa thực dân, là sự phân biệt
chủng tộc, là những người hay phán xét, dù họ là người Mỹ hay người Việt Nam
đưa ra những nhận định này.
Và rồi những người trẻ hoặc các cá nhân tội nghiệp cảm
thấy như họ có lỗi, vì họ không biết đủ tiếng Việt hay bất cứ điều gì. Tôi cố gắng
nói với mọi người rằng: Đừng như vậy. Đừng tự trách mình. Thay vào đó, hãy hiểu
lịch sử. Hãy hiểu rằng lý do tại sao người Mỹ gốc Việt ở Mỹ không phải ngẫu
nhiên. Chúng tôi không bị khủng hoảng căn tính đơn giản chỉ vì chúng tôi là người
Việt Nam sống ở Mỹ. Nếu chúng tôi có những cuộc khủng hoảng về căn tính, thì đó
là do chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa đế quốc đã
tạo ra các cuộc chiến tranh, tạo ra những người tị nạn, tạo ra chúng tôi. Hãy đổ
lỗi cho các tiến trình lịch sử đó. Và nếu bạn làm thế, thì bạn không nên cảm thấy
bối rối nữa. Bạn nên cảm thấy tức giận.
Những gì tôi nói với mọi người là hãy tức giận chứ đừng
bối rối. Nếu bạn bối rối, bạn sẽ tự trách mình, vì sự thiếu sót bên trong bạn.
Bạn nên giận dữ trước những thế lực lịch sử đã giết hàng triệu người và sản
sinh ra bạn. Tôi đổ lỗi cho người Mỹ, chắc chắn rồi bởi vì tôi biết lịch sử nước
Mỹ rất sâu sắc. Nhưng người Việt Nam cũng phải chịu trách nhiệm. Đó là những gì
The Sympathizer đã viết. The Sympathizer đổ lỗi cho người Mỹ và người Pháp vì
đã đô hộ chúng ta. Mọi người đều phải chịu trách nhiệm. Đó là câu trả lời của
tôi, một câu trả lời phức tạp. Tôi từ chối những thuật ngữ về khủng hoảng căn
tính, tôi từ chối cảm thấy buồn, tôi từ chối cảm thấy bối rối. Thay vào đó phản
ứng của tôi là tức giận, là nhận thức lịch sử, là ý thức về mặt chính trị./.
Nhà Văn Việt Thanh Nguyễn Sinh Năm 1971 Tại
Buôn Ma Thuột. Ông Đến Mỹ Cùng Gia Đình Vào Năm 1975 Và Sinh Sống Tại
Pennsylvania, Sau Đó Chuyển Đến California. Hiện Tại, Ông Đang Là Giáo Sư Tại Đại
Học Nam California, Đồng Thời Là Học Giả, Nhà Văn, Diễn Giả Và Tác Giả Của Nhiều
Tờ Báo Nổi Tiếng Tại Mỹ Như: Time, The Guardian, The Atlantic, The Los Angeles
Times, The New York Times. Ông Cũng Sáng Lập Và Đồng Điều Hành The Diasporic
Vietnamese Artists Network (Mạng Lưới Nghệ Sĩ Việt Nam Hải Ngoại). Ngoài Ra,
Ông Cũng Là Thành Viên Hội Đồng Giải Thưởng Pulitzer Và Là Giám Khảo Của Các Giải
Thưởng Văn Học Quan Trọng Khác Tại Mỹ.
Tác Phẩm Tiểu Thuyết Đầu Tay “The Sympathizer” (2015) Của Ông Đã Trở Thành Tiểu
Thuyết Bán Chạy Của New York Times, Thắng Giải Pulitzer Cho Hạng Mục
Tác Phẩm Hư Cấu Xuất Sắc Nhất Năm 2016 Cùng Nhiều Giải Thưởng Khác Như:
Dayton Literary Peace Prize, Edgar Award Cho Tiểu Thuyết Đầu Tay, Giải Thưởng
Tiểu Thuyết Đầu Tay Của Center For Fiction… Ngoài Ra, Ông Còn Là Tác Giả Của
Các Công Trình Học Thuật, Tác Phẩm Hư Cấu Và Phi Hư Cấu Quan Trọng Khác Như:
Race And Resistance: Literature And Politics In Asian America (2002, Nxb. Đại Học
Oxford), Nothing Ever Dies: Vietnam And The Memory Of War (2016, Nxb. Đại Học
Harvard), The Refugees (2017, Nxb. Grove) (Bản Dịch Tiếng Việt Là Người Tị Nạn),
The Committed (2021, Phần Tiếp Theo Của The Sympathizer).
Nguồn: Tạp chí Văn
Nghệ TP.HCM