"Đại Việt sử lược", còn gọi là "Việt sử
lược" là một cuốn sử viết vào thời Trần, bằng chữ Hán, tác giả khuyết
danh. Tác phẩm được hậu thế đánh giá cao nhờ bút pháp khá hiện đại, sinh động bằng
cách đưa chất hài hước vào nội dung.
CHẤT HÀI HƯỚC Ở MỘT CUỐN SỬ
NGUYỄN THANH TÚ
"Đại Việt sử lược", còn gọi là "Việt sử
lược" là một cuốn sử viết vào thời Trần, bằng chữ Hán, tác giả khuyết
danh. Tác phẩm được hậu thế đánh giá cao nhờ bút pháp khá hiện đại, sinh động bằng
cách đưa chất hài hước vào nội dung. Có thể xem đây là bài học cho hôm nay khi
các giáo trình, sách giáo khoa và cách dạy sử học có phần khô cứng, ít hấp dẫn
người học.
Lối viết trong "Việt sử lược" sắc sảo, thâm
thúy, miêu tả linh hoạt mà ngắn gọn, hóm hỉnh mà tinh tế. Miêu tả sự kiện năm
1148, tác phẩm đi tìm các mối quan hệ phức tạp mang tính nguyên nhân. Anh Vũ tư
thông Thái hậu bị phò mã Dương Tự Minh và Điện tiền Vũ Đái bắt trói. Thái hậu hối
lộ Vũ Đái tha cho Anh Vũ.
Tự Minh giận dữ mắng: "Điện tiền là Vũ cứt chứ
không phải Vũ Đái!". Nói rồi đâm đầu xuống giếng tự tử. Qủa nhiên về sau
Anh Vũ giết hết những người đã bắt hắn, kể cả Vũ Đái. Tiếng cười đau đớn cho Vũ
Đái vì tham của mà chết, cao hơn còn châm biếm những kẻ hám lợi, vì một chút
ích kỷ mà làm hỏng cả đại nghiệp của bao người. Tiếng cười hướng tới bọn Anh
Vũ, Thái hậu vô đạo, dâm loạn làm ô uế nơi cung cấm trang nghiêm. Nhất là mỉa
mai Anh Vũ, tráo trở, tàn ác, giết cả ân nhân đã cứu sống mình. Về hình thức,
tiếng cười nổi rõ hơn khi tác giả chơi chữ trong lời nhân vật để mỉa kẻ đáng cười,
đáng thương, đáng giận là Vũ Đái tuy mang chức Điện tiền sang trọng thực ra
cũng chỉ là loài "cứt" mà thôi. Cùng sự kiện, sau này "Đại Việt
sử ký toàn thư" lên án có phần gay gắt hơn nhưng thuần một lý trí tỉnh táo
mà thiếu vắng đi chất giễu nhại của tiếng cười: "Anh Vũ tư thông với mẫu hậu,
không tội gì to bằng. Bọn Vũ Đái nên tâu bày gian trạng rồi bắt giam vào ngục
mà giết đi. Đến khi bắt được Anh Vũ, lại nhận vàng của Thái hậu, đến sau rốt cuộc
bị Anh Vũ giết, liên lụy đến mấy mươi người, thế là nuôi hổ để họa về sau vậy"...
Từ "Việt sử lược" cho thấy lối tiếp cận sử
liệu bằng hai con đường sự thật và hài hước sẽ dễ đi vào bạn đọc hơn. Thế nên
tác phẩm rất chú ý đến những chi tiết mang ý nghĩa mỉa mai, phê phán, chế giễu.
Giá trị phổ quát của tác phẩm hướng đến là cười cả một thời đại hơn là cười một
cá nhân, do vậy đối tượng cười thường là các vua, vì qua đó sẽ thấy được sự suy
thoái của cả một triều chính.
Ví như một vài chi tiết thời vua Anh Tông về nhân vật
Anh Vũ: "Trước kia lúc vua còn nhỏ bé, việc chính trị không kể lớn nhỏ đều
ủy thác cho Đỗ Anh Vũ quyết đoán cả. Anh Vũ lại tư thông với Thái hậu, vì vậy
mà càng kiêu ngạo, không kiêng nể ai. Ở chỗ triều đình thì vung tay lớn tiếng mắng
người. Sai bảo các quan lại thì nhếch mép phì hơi. Nhiều người lấm lét nhìn mà
không dám nói".
Chi tiết này vạch trần tính chất vô luân, lỗi đạo của
triều đình: vua hèn kém, non nớt, bạc nhược; quan lại chuyên quyền, kiêu ngạo,
hống hách (Anh Vũ), dâm ô (Thái hậu, Anh Vũ), hèn nhát (các quan)... Còn là trắng
trợn, thâm hiểm, tàn bạo. Quan Quốc Dĩ hiến kế đặt cái án (hòm bằng đồng) để
thu nhận những văn thư, sớ tấu các nơi. Nhà vua lấy làm phải và hạ lệnh:
"Có ai muốn nói việc gì thì hãy viết thư bỏ tại đấy".
Trong khoảng 10 ngày văn thư, sớ tấu đã đầy cả án. Có
một cái thư nặc danh nói "Anh Vũ sắp khởi binh làm loạn". Không tìm
ra người gửi, Anh Vũ bèn tâu với vua: "Tất là người bày lập ra cái
án". Vua không cần suy nghĩ bèn sai bắt Quốc Dĩ trị về cái tội làm việc vu
cáo. Anh Vũ sai người đem rượu độc đến bắt Quốc Dĩ phải chết. Thế là kẻ đểu
cáng, xấu xa thì nhởn nhơ, người tốt với mong muốn tốt và việc làm tốt thì bị hại!
Toát ra một ý nghĩa mang tính phổ quát: thời nào cũng vậy, hãy cảnh giác với kẻ
xấu vì chúng luôn lọc lõi, nhẫn tâm, độc ác... Nhất là bọn này lại có quyền lực
thì còn nguy hiểm vô cùng!
Đứng trên quan điểm đạo đức truyền thống, tác phẩm thường
đề cập tới thói dâm sắc để lên án, vạch trần: "Vua giáng Thái tử Long Sưởng...
Lập Long Cán làm Thái tử. (Vì) Long Sưởng có tính hiếu sắc. Ở trong cung có
cung phi nào được vua yêu quí, Long Sưởng cũng đều tư thông cả. Nhà vua rất
ghét sự vô lễ ấy. Bà Nguyên Phi là Từ Thị được vua yêu, Hoàng hậu (ghen) bèn
sai Long Sưởng lén lút đến tư tình (với Từ Thị) để gây sự ngờ vực cho
vua…". Những mâu thuẫn, tình tiết thật đáng cười cho thấy "hiếu
dâm" và "loạn luân" trở thành một đặc điểm của Hoàng cung, rất dễ
"thực thi", ai cũng có thể "thực hành", từ vua đến hoàng hậu,
nguyên phi, cung phi, thái tử… Thậm chí "hiếu dâm" được coi là một
"công cụ" của một âm mưu…
Hướng sự phê phán vào ngôi vị cao nhất là vua, dùng những
chi tiết của tiếng cười để bóc trần những hào nhoáng quân vương bóng bẩy bên
ngoài để làm trơ ra những gì đáng chê kém cỏi nhất, đồng thời cũng hướng vào
đám quan lại phơi bày những tính cách hèn hạ thảm hại. Phê phán sự vô trách nhiệm
của người "thay trời chăm sóc dân" tác phẩm chú ý chọn chi tiết tiêu
biểu. Như chuyện vua đi chơi, nghe ngoài thành có kẻ kêu la vì bị cướp, vua cứ
giả vờ không nghe thấy. Thế thì vua đâu phải là "cha mẹ dân"! Là
"người đứng đầu thiên hạ" mà nhát hơn trẻ con. Mỗi khi có tiếng sấm
vua rất sợ. Có tên quan Nguyễn Dư tự xưng có thuật "hành phục" (làm
im) được sấm, vua cũng tưởng thật… Chân dung vị vua được tiếng cười "vẽ"
lên: vô trách nhiệm, ngu dốt, hèn nhát, đần độn, ngược hẳn với hình ảnh bậc
"minh quân" từng rao giảng. Bọn nịnh thần cũng chỉ đáng là trò cười,
rỗng tuếch, khoác lác...
Tác phẩm đã không chỉ miêu tả cái hài đáng chê, còn là
cái bi đáng buồn như là một cách "tống tiễn" những chính thể thối nát
ấy vào quá khứ bằng tiếng cười!
Với những câu chuyện nhỏ nhưng được chọn lọc mang tính
khái quát cao, tác phẩm cho thấy cả một bối cảnh xã hội thời Lý đạo Phật thịnh
trị, chịu ảnh hưởng của Mật tông khá nặng. Phật giáo ảnh hưởng tới triều chính,
chi phối đến cả vua. Câu chuyện nhà sư dạy hổ không chỉ cười nhà sư, cười vua,
còn là tiếng cười khi biến tôn giáo thành tà giáo: "Có một nhà sư người xứ
Tây Vực (vùng Trung Á, Bắc Ấn) tới. Vua (Cao Tông) hỏi sư biết làm phép gì. Sư
trả lời: biết giáng hổ. Vua sai đưa sư về nhà công quán nghỉ, rồi cho người bắt
hổ đến để thử pháp thuật.
Hơn một tuần sau, sư nói hổ ấy có thể phục được rồi.
Vua bèn sai làm chuồng ở gác Vĩnh Bình, rồi bảo sư vào đó. Sư đi rón rén bước một,
vừa đi vừa niệm chú, tiến về phía hổ, lấy gậy cốc vào đầu nó. Hổ chồm lên vồ lấy
gậy. Sư nhân thế bèn tâu với vua rằng: "Có kẻ ác đã giải mất phép mầu. Xin
lại để tụng niệm cầu Phật thêm nữa rồi sau đó sẽ thi thố pháp thuật". Vua
nghe lời. Sư cầu đảo mãi, lâu lắm, nhưng vua cứ muốn thử đến cùng.
Một hôm, vua lại bảo sư tiếp tục. Hổ bèn nhảy chồm
lên. Sư sợ hãi, lùi lại, không biết làm thế nào được, bèn đứng tựa vào chuồng
mà chết". Đúng là một bi hài kịch, có cao trào, thắt nút, mở nút. Tiếng cười
đủ cung bậc hài hước, chế giễu, châm biếm, mỉa mai nhà sư khoác loác phải trả
giá bằng cả mạng sống của mình. Hài hước ở chỗ nói khoác biết giáng hổ. Châm biếm
ở chỗ đã không biết gì mà dám đi vào chuồng trêu hổ, đã vậy vẫn tiếp tục lừa dối
bị "giải mất phép mầu" và xin "cầu đảo" làm kế hoãn binh.
Cuối cùng phải chịu chết thảm hại.
Ý nghĩa giáo huấn bật ra: người ta phải chín chắn, đừng
khoác lác kẻo hại cả đến tính mạng. Tiếng cười đã "tầm thường hoá" hạ
bệ, "giải thiêng" nhà Phật. Mỉa mai vua - một người được coi là
"thiên tử" thế mà lại đi tin một kẻ khoác loác vô lối như thế!
Là sách sử nhưng lại thường hay sử dụng cốt truyện gay
cấn để đưa nhân vật vào những tình huống thử thách để làm bật ra bản chất thật.
Câu chuyện "giáng hổ" trên cũng là sự tạo ra thử thách cho nhân vật
sư. Những chi tiết này cho phép liên tưởng đến truyện cười dân gian "Đẻ ra
sư" (có thể ra đời trong thời kỳ này), cũng có nhân vật là sư, cũng có
tình huống thử thách (nhưng ngẫu nhiên nhiều hơn), những chi tiết rất gợi, nhà
sư gặp người đàn bà chửa giữa sông đúng lúc con cua cắp vào chỗ kín. Nhà sư buộc
phải cứu (thế mới đúng với giáo lý "cứu độ chúng sinh") nhưng không
thể cho tay vào chỗ "ấy"… vì "phạm giới luật" không được gần
gũi đàn bà chưa nói tới chuyện đưa tay vào nơi "ô uế" (!). Sắc điệu mỉa
mai nhà Phật của dân gian rõ hơn và ác hơn: người đàn bà "đẻ" ra
sư!!!
Nguồn: Văn Nghệ Công
An