Nhà văn Nguyễn Mạnh
Tuấn kể về sóng gió dòng họ mình: “Bà chủ Mai Lĩnh, nổi tiếng
Hải Phòng, trước đây chỉ ngồi quầy đếm tiền, quản lý thu chi của gia tộc, giờ
thúng mẹt ra vỉa hè ngồi bán từng gói xôi, nhặt nhạnh từng đồng”.
Từ danh
gia vọng tộc đến người
công nhân thợ mỏ
NGUYỄN MẠNH TUẤN
Sau hiệp nghị Genève 1954, Việt Nam phải chia hai miền
Nam – Bắc. Những người miền Bắc từng theo Pháp và chính quyền thuộc Pháp, những
người không theo Pháp, nhưng không tán thành chế độ Việt Minh cộng sản, ùn ùn
đưa gia đình di cư vào Nam, tạo nên bầu không khí bức xúc và xáo trộn xã hội
cho cả những người ở lại.
Hai bên đối nghịch đều vận hết công suất tuyên truyền
và phản tuyên truyền. Một đằng vận động dân đi càng nhiều càng tốt để hút cạn
sinh lực đất Bắc, một đằng giữ dân ở lại, đừng mắc mưu kẻ địch. Hồi đó, tôi mới
9 tuổi, hàng ngày cắp sách đi học, từ nhà ở Trần Nhật Duật đến trường Đỗ Hữu Vị,
phố Cửa Bắc, hôm nay vừa đọc ở các bức tường trên đường đi học, câu: “Cụ Ngô thống
nhất sơn hà, Già Hồ chia sẻ nước nhà làm đôi”, viết nguệch ngoạc bằng sơn đỏ,
thì sáng hôm sau, cũng dòng chữ trên tường ấy, được ai chữa chữ “Ngô” thành “Hồ”
và chữ “già Hồ” thành “thằng Ngô”, đọc cả câu thành: “Cụ Hồ thống nhất sơn hà,
Thằng Ngô chia sẻ nước nhà làm đôi”. Hôm sau nữa, lại “Cụ Ngô…”, “Già Hồ…”. Rồi
hôm sau nữa lại” Cụ Hồ…”, “Thằng Ngô..”, cho đến ngày Hà Nội hoàn toàn thuộc
chính quyền mới.
Phải kể bối cảnh xã hội lúc đó, để nói về các ông nhà
Mai Lĩnh, đến phút cuối cùng cũng người đi, kẻ ở. Do ông Ba và ông Năm cùng mất
1947, nên đến 1954, nhà Mai Lĩnh chỉ còn ông Hai (Đỗ Văn Kiêm, ông ngoại tôi),
ông Sáu (Đỗ Xuân Mai), ông Bảy (Đỗ Như Ngọc) ở Hà Nội, và ông Tư (Đỗ Như Phượng)
ở Xuân Mai, Phúc Yên.
Gia tộc Mai Lĩnh, có cụ Đỗ Văn Phong vì chống Pháp, bị
Pháp xử khổ sai chung thân, đày đi Guyane. Thế hệ kế thừa là các ông nhà Mai
Lĩnh lập ấp, làm báo chí, xuất bản, với mục đích góp phần đưa dân tộc thoát khỏi
ngoại xâm bằng con đường cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí. Trước Cách mạng
tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, các ông đều ủng hộ Việt Minh. Ông
Hai, ông Tư bị Pháp bắt giam. Ông Ba cùng khá đông con cháu nhà Mai Lĩnh gia nhập
Việt Minh lên chiến khu kháng Pháp. Đến năm 1954, gia tộc nhà Mai Lịch, trừ chú
Rỵ, con ông Ba, bị động viên, học ở trường sĩ quan Đà Lạt, còn lại, không một
ai làm việc trong chính quyền thuộc Pháp hoặc đi lính cho Pháp. Năm 1949, thủ
hiến Bắc Việt nhiều lần gặp ông Hai và ông Sáu đặt vấn đề người Pháp sẽ tài trợ
toàn diện để phục hưng nhà Mai Lĩnh, nhưng hai ông nhất mực từ chối.Vậy tại sao
khi Việt Minh thắng Pháp, ông Hai và ông Sáu lại đưa quá nửa dân số nhà Mai
Lĩnh vào Nam? Theo địch, chắc chắn không.
Nhưng không theo “ta” thì rõ ràng. Nguyên nhân chính,
từ năm 1948, 1949 trở ra, những sinh hoạt chính trị và thanh trừng nội bộ trong
lực lượng kháng chiến ở chiến khu, do ảnh hưởng từ cộng sản Trung Quốc, đỉnh điểm
là vụ tử hình bà Nguyễn Thị Năm (1953), một địa chủ có công kháng chiến, đã dẫn
đến việc hàng loạt các thành phần thuộc tầng lớp trên: trí thức, văn nghệ sĩ, địa
chủ, tư sản, vân vân… bỏ chiến khu trở về vùng Pháp chiếm, gọi lóng là “dinh
tê” (về tề). Hồi đó, những người này bị kết tội đào ngũ, phản bội, là ăn phải bả
tuyên truyền của địch, là hèn nhát không chịu được gian khổ của kháng chiến,
vân vân và vân vân… Chính
làn sóng “dinh tê” này đã ảnh hưởng nặng đến số đông người trong vùng bị Pháp
chiếm, từng theo Việt Minh, nhưng vẫn di cư vào Nam, trong đó có các ông nhà
Mai Lĩnh.
Cuối năm 1953, cuộc họp gia tộc diễn ra tại 21 Hàng
Bún, có mặt ông Hai, ông Sáu, ông Bảy; ông Tư, bác Tiếp, bác Thụ cùng ở Phúc
Yên ra và bố tôi, dẫn đến quyết định cuối cùng: tất cả cùng đi . Nhưng ông Tư về
Phúc Yên, do quá yêu, quá gắn bó, quá tiếc đồng đất quê hương, gia tộc, thay vì
thu xếp ra đi, ông trở lên Hà Nội, nói với ông ngoại tôi: Các anh cứ đi. Tôi
không thể bỏ đất đai, nhà cửa, mồ mả cha ông. Ở lại sướng thì biết chắc là
không rồi, còn khổ bao nhiêu, tôi chịu hết, miễn vẫn giữ được đất nhà mình. Sau
này, nói về sự qua đời tức tưởi của ông Tư trong cải cách ruộng đất, bố tôi
nói: Ta biết tính ông Tư. Nếu biết đất cũng không giữ lại được một tấc, ông vẫn
cứ ở lại.
Ông Bảy lại khác. Con trai lớn của ông là chú Yên (kỹ
sư Đỗ Phúc Yên) theo Việt Minh, từ năm 1946, nhà ông Bảy ở Hải Phòng lại là cơ
sở nuôi giấu nhiều cán bộ hoạt động nội thành của Việt Minh. Cũng vì “tội” này,
ông bị sở Mật thám Hải Phòng hành lên, hành xuống, có thời gian phải đưa cả nhà
trốn đi hậu phương Thanh Hóa rồi về làng Bát Tràng . Bên nhà bà Bảy cũng nhiều
anh em làm lớn phía Việt Minh. Song điều quan trọng nhất là ông có niềm tin như
đinh đóng cột vào lý tưởng yêu nước của Việt Minh, nên đem cân những lợi thế
trên với quyết định của các anh và thúc giục ra đi của bà Bảy, thấy việc ở lại
nặng ký hơn hẳn, lần đầu tiên trong đời, ông Bảy, em út của anh em nhà Mai
Lĩnh, một người trước sau chỉ biết nghe lời các anh và nể vợ, dám quyết định
ngược lại: Sẽ sống mãi với thành phố cảng.
Năm 1963, tôi đi thanh niên xung phong, rồi trở thành
thợ sửa chữa ô tô lâm nghiệp ở vùng mỏ Quảng Ninh, đến trước hồi máy bay Mỹ ném
bom ác liệt miền Bắc, mỗi năm đôi lần, tôi đạp xe từ Quảng Ninh về Hải Phòng,
chơi ở nhà ông Bảy, số 9, ngõ Công Bình, đường Cát Dài, và chú thím Bách (dược
sĩ Đỗ Như Bách, con ông Năm), ở “căn hộ” một gian, vốn là vách ngăn cạnh gầm cầu
thang khu tập thể xí nghiệp dược.Thời gian này cũng là lần đầu tiên tôi biết đến
gia sản nhà Mai Lĩnh Hải Phòng. Trang ấp Mai Lĩnh, gần nhà thờ Nam Phát ở ngoại
vi thành phố và những địa chỉ A, B, C nào đó, đều biến mất trong cuộc cải tạo
tư sản. Cửa hàng thuốc tây ở ngã tư Cát Dài – Cầu Đất đưa vào công tư hợp
doanh, nên cả nhà ông Bảy: hai vợ chồng, 11 con trai gái, toàn ở tuổi trứng gà,
trứng vịt, cộng thêm cô Sửu, con ông bà Ba bị quy địa chủ, trốn từ Xuân Mai,
Phúc Yên ra, ở ngôi nhà ngói một tầng khiêm tốn trong ngõ Công Bình.
Từ khi xa gia đình, sống tự lập, bắt đầu có ý thức về
tinh thần nhà Mai Lĩnh một thời hưng thịnh trong sự nghiệp báo chí, xuất bản,
thì nơi tôi tiếp xúc đầu tiên chính là nhà ông Bảy, còn trước đây, con cháu nhà
Mai Lĩnh lứa chúng tôi, chưa bao giờ được nếm vị ngọt ngào từ bản lý lịch gia tộc,
nên thường nói với nhau về thân phận mình: Hiện tại thì gian nan, hoàng kim thì
tưởng tượng.
Về ông Bảy, bố tôi thường kể, khi cùng ông Sáu, ông
Năm làm Hải Phòng Tuần Báo, Tiểu Thuyết Thứ Ba và xuất bản sách, ở Hải Phòng,
ông luôn cần mẫn, tháo vát, một mình bao hết việc đặt bài, sửa morasse, chạy
nhà in, rồi giao dịch phát hành. Việc đến tay ông, không bao giờ ông Sáu phải
xem lại. Người Hải Phòng biết nhiều đến nhà Mai Lĩnh với ông Sáu (Đỗ Xuân Mai),
ông Năm (Đỗ Văn Năm), ông Bảy (Đỗ Như Ngọc) chính trong thời gian này. Khi nhà
Mai Lĩnh phát triển việc xuất bản, ông Sáu lên Hà Nội, ông Bảy, ông Năm ở lại Hải
Phòng vẫn lo tờ báo, quản lý ấp Mai Lĩnh, buôn bán nhà đất, thuốc tây, văn hóa
phẩm.
Ông chủ Mai Lĩnh giờ là nhân viên bán hàng của cửa
hàng thuốc tây công tư hợp doanh, không còn mang tên Mai Lĩnh. Hôm gặp ông ở
nhà, tôi tò mò hỏi:
– Vào công tư hợp doanh, ông có còn là chủ?
– Không. Ông nói: Giờ ông chỉ là người làm thuê. Nhưng
làm thuê trong chế độ xã hội chủ nghĩa, giá trị gấp trăm lần làm chủ dưới chế độ
tư bản.
Một người ông cao, gày, chiếc kính cận gọng nhựa cũ với
hai mắt kính dày cộp, góp phần tạo nên gương mặt luôn sống thật trong vẻ khiêm
nhường, nhẫn nại với ít nhiều sự khắc khổ. Một con người như sinh ra để yêu
công việc, yêu gia đình, dòng tộc, và chẳng bao giờ nhận ra ông có thể giận ai,
ghét ai. Còn lòng yêu nước, yêu quê hương ở ông vừa chân thành, vừa quyết liệt,
khi ông đặt tên tất cả các con là địa danh các tỉnh và dòng sông. Người đầu
tiên là Đỗ Phúc Yên, rồi đến Đỗ Thái Bình, Đỗ Thị Bắc Ninh, Đỗ Thái Nguyên, Đỗ
Thị Bắc Giang, Đỗ Lạng Sơn, Đỗ Tuyên Quang, Đỗ Thị Hà Đông, Đỗ Hải Dương, Đỗ
Phú Thọ, Đỗ Thị Hồng Hà, đến Đỗ Thị Hiền Lương... Họ hàng nói đùa: có lẽ sợ tiến qua
sông Bến Hải sẽ vi phạm hiệp định Genève và luật sinh đẻ có kế hoạch, nên ông
bà mới chịu dừng bước, nếu không, tên các con ông bà phải rải tận Cà Mau, Phú
Quốc.
Tôi tin ông Bảy thật lòng khi nói về chủ nghĩa xã hội.
Chỉ sau năm 1954, khi miền Bắc thực hiện phân loại dân chúng ra các thành phần:
cán bộ, địa chủ, tư sản, phú nông, trung nông, bần nông, cố nông, tiểu chủ, tiểu
tư sản, dân nghèo thành thị, vân vân… thì cả người hiểu biết lẫn không hiểu biết
mới lớn tiếng nói về chủ nghĩa xã hội như những nhà thông thái, chứ trước đó,
trong tâm trí người dân, xã hội chỉ đơn giản hai loại nhà giàu và nhà nghèo.
Cũng năm 1954 này, anh Khôi tôi, 14 tuổi, đang học trường
trung học Chu Văn An, đem niềm phấn khởi từ các phong trào sinh hoạt chính trị ở
trường về nhà tuyên truyền cho các em, trong đó, tôi lớn nhất, mới 9 tuổi: Việt
Nam sẽ xây dựng chủ nghĩa xã hội, sẽ trở thành thiên đường như Liên Xô, Trung
Quốc. Tôi hỏi: Chủ nghĩa xã hội là thế nào? Anh tôi hào hùng: Là tất cả mọi người
đều bình đẳng, không có người bóc lột người.
Tôi cam đoan 90 phần trăm dân số miền Bắc, trong đó có
ông Bảy, lúc ấy đều hiểu chủ nghĩa xã hội đơn giản và thật thà như anh tôi.
Liên Xô, Trung Quốc chưa ai nhìn thấy, nhưng “tất cả mọi người đều bình đẳng,
không có người bóc lột người” thì lý tưởng quá. Người nghèo sung sướng vì từ
nay mình không còn bị thực dân, phong kiến bóc lột; còn người giàu cũng sung sướng
vì nghĩ kẻ bóc lột không phải là mình. Chỉ khi dân chúng bị phân loại thành phần,
rồi cải cách ruộng đất, rồi cải tạo tư sản, người giàu mới té ngửa: hóa ra kẻ
phạm tội bóc lột là chính mình. Các cậu ấm, cô chiêu con nhà giàu được tỉnh ngộ
nhờ tham gia sinh hoạt đoàn thể, về ngắm nghía bố mẹ mình để tìm hạnh phúc
trong đấu tranh.
Ngoài công việc cần mẫn ở cửa hàng, ông Bảy có niềm
say mê đọc tất cả các loại báo, tạp chí mới xuất bản, thấy bài nào hay về đạo đức,
lý tưởng, về người tốt việc tốt là ông cắt ra, đóng thành bộ sưu tập để các con
cùng đọc.
Chuẩn mực về đạo đức, niềm tin và nghị lực từ ông Bảy ảnh
hưởng tích cực đến sự hiếu học và quyết tâm thành đạt của các con, cộng hưởng với
khí phách phi thường của bà Bảy, thành sức sống mãnh liệt chung của cả nhà. Và
nhờ sức sống này, gia đình ông Bảy đã vượt qua những thử thách gian nan, mà
ngày nay, không ai tin có thể vượt qua.
Hải Phòng và miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Việc
ông bà Bảy đóng góp tâm sức, của cải cho kháng chiến, có thể phải trả giá bằng
sinh mạng, được xác định và tôn vinh là tư sản yêu nước, tư sản có công với nước,
kèm theo chứng nhận của nhiều quan chức cao cấp, từng được ông bà giúp đỡ trong
kháng chiến, nhưng tài sản vẫn cứ mất trong cuộc cải tạo tư sản, và các con lần
lượt tốt nghiệp trung học loại xuất sắc, vẫn lần lượt không được vào đại học.
Chú Đỗ Thái Bình, sinh 1941, phải ra Quảng Ninh dạy bổ túc văn hóa cho bộ đội.
Đỗ Thái Nguyên sinh 1945 ra cảng làm công nhân bốc vác. Đỗ Thị Bắc Giang sinh
1946, làm công nhân ở nông trường Tô Hiệu. Đỗ Lạng Sơn làm thợ điện ở nhà máy
nhựa Tiền Phong. Đỗ Tuyên Quang vào quân đội chiến đấu ở chiến trường miền Nam,
vân vân…
Sinh mạng chính trị của gia đình như vậy, còn sinh mạng
kinh tế rơi tõm vào tình trạng cực kỳ túng quẫn, khi lương nhân viên bán hàng của
ông Bảy chỉ đủ nuôi mình ông, con lớn nhất là Đỗ Thái Bình mới 14 tuổi. Và người
lèo lái con thuyền kinh tế gia đình Mai Lĩnh Hải Phòng trong cơn phong ba bão
táp chính là bà Bảy. Xin nhắc lại, đó là người bà có khí phách phi thường, sẵn
sàng xả thân đội trời đạp đất để sống và nuôi chồng con.
Bà (Lê Thị Nội) là dân Bát Tràng. Phụ nữ Bát Tràng nổi
tiếng cả nước làm ăn buôn bán giỏi. Còn sinh đẻ có giỏi không thì không rõ,
nhưng chỉ riêng với bà: con đầu được sinh năm 1941, con thứ 11, sinh năm 1958,
tức trong vòng mười tám năm, bà liên tiếp mang thai và đẻ . Nếu tính con út
sinh 1958 đến tuổi trưởng thành năm 1978, thì gần như cả đời bà phải nuôi con
đàn, con mọn. Vậy mà nhà Mai Lĩnh thời hoàng kim, bà cũng tay hòm chìa khóa,
sang thời không còn cả hòm lẫn chìa khóa, một mình bà vẫn xoay xỏa nuôi cả nhà
bằng nghề bán… xôi.
Xuất thân trong một gia đình khá giả và danh giá, bà
không đẹp nhưng có tướng sang: mắt sáng sắc, tai to, miệng rộng, giọng vang,
luôn thu được sự nể trọng trong giao dịch của cả người thuộc giới thượng lưu lẫn
giới bình dân, điều rất hợp với người buôn bán giỏi.
Bà chủ Mai Lĩnh, nổi tiếng Hải Phòng, trước đây chỉ ngồi quầy đếm tiền, quản lý thu chi của gia tộc, giờ thúng mẹt ra vỉa hè ngồi bán từng gói xôi, nhặt nhạnh từng đồng. Sự nhẫn nhục, nuốt nghẹn những thể diện thời danh gia vọng tộc vì mưu sinh, giờ chỉ là chuyện nhỏ khi nỗi uất ức phải chịu đựng để sống trong những cực nhục vô lý lớn hơn gấp bội. Để được đặt gánh bán xôi ở vỉa hè, phải xin đủ thứ phép của đủ thứ cấp chính quyền, nhưng lệnh cấm buôn bán và chế biến lương thực từ các loại lúa gạo, ngũ cốc vẫn hết sức nghiêm ngặt. Muốn nấu xôi, đương nhiên phải mua gạo, đậu … chợ đen, nên việc bán xôi, nếu tính phạm pháp, công an bắt lúc nào cũng được.
Bà Bảy phải vừa bán hàng, vừa lo chạy những cơn ruồng bố bất thần của công an. Sau này, bà làm tương để bán cũng vậy. Bán tương thì không cấm, nhưng cấm mua bán đậu làm tương, thế là phải tìm mọi cách để làm và tiêu thụ lén lút. Nhưng phạm pháp, dù để sống qua ngày, không phải phẩm chất nhà Mai Linh. Nên được chồng con làm ngơ, đối với bà cũng là điều hạnh phúc. Hơn nửa thế kỷ sau, Nhà nước xóa bỏ chế độ tem phiếu và bao cấp lương thực như một phát minh vĩ đại, không ai nhớ tới công của những người bán xôi, trong đó có bà Bảy, bao năm chịu đựng mọi đắng cay tủi nhục để…đi trước “thời đại”.