Già làng Krajan Plin khẳng định: Nhân vật "Lang
Biang" trong giai thoại đang được truyền tụng đã bị tùy tiện biến nhân vật
nữ thành nam. Trong sử thi K'ho, nhân vật K'Lang vốn là nữ và K' Biang là nam.
Giải ngộ nhận folklore về Lang Biang
KRAJAN PLIN
Rất đáng mừng khi văn hóa dân gian của các dân tộc
ngày càng được quan tâm hơn. Chính nó đang góp phần bảo tồn, đồng thời đưa văn
hóa dân gian, đưa sử thi các dân tộc truyền bá rộng rãi hơn, vượt xa hơn giới hạn
địa lý nơi sản sinh ra nó. Đổi lại, vẻ đẹp huyền bí của nó cũng có những đóng
góp nhất định để tạo nên dung mạo, thương hiệu từng vùng đất, góp phần vào việc
đa dạng hóa sản phẩm du lịch và phát triển du lịch - văn hóa.
Đáng tiếc, nhiều yếu tố văn hóa dân gian đã bị hiểu
sai và hoàn toàn sai. Với bài viết ngắn này, tôi muốn góp ý với nhóm tác giả,
các cá nhân là những người đã thực hiện bài viết về truyền thuyết Lang Biang
nói riêng, và viết về những địa danh liên quan đến vùng đất Lang Biang và xứ sở
thần tiên Đà Lạt ngày nay nói chung. Với cương vị một già làng của vùng đất
Lang Biang (Lạc Dương, Lâm Đồng), cho phép tôi cùng đóng góp một phần nhỏ về những
giá trị quý báu mà ông bà tổ tiên chúng tôi để lại, cũng là những gì mà tôi đã
và đang đi tìm suốt cả cuộc đời.
Đã có những ngộ nhận, đấy là điều rất đáng tiếc và tai
hại.Những chi tiết không đáng có và nghịch lý, lấy cách tư duy phụ hệ kiểu người
Kinh áp đặt cho truyền thuyết "Lang Biang"... trong khi tộc người
K'ho xưa nay họ lại tư duy và quan niệm khác, xuất phát từ quan niệm mẫu hệ.
Tôi xin gạch đầu dòng giải ngộ nhận một số sai lầm.
Đề cập đến sử thi thì phải nhớ rằng, cách xưng hô của
tộc người bản địa Tây Nguyên, nếu là vợ chồng thì bao giờ tên người đàn bà đều
luôn đứng trước tên người đàn ông.Nhân vật "Lang Biang" trong giai
thoại đang được truyền tụng đã bị tùy tiện biến nhân vật nữ thành nam. Trong sử
thi K'ho, nhân vật K'Lang vốn là nữ và K' Biang là nam. Khi được truyền bá, tác
giả hoặc nhóm tác giả đã tự động đảo ngược nhân vật. Xin lưu ý, tên của người nữ
đặt trước, người nam đứng sau, đó là một nét thuần phong mỹ tục.
Ngoài ra, nhiều trường hợp khác trong sử thi, người ta
chỉ cần nhớ tên mẹ đẻ ra nhân vật thôi, vì cha là thần linh như trong “Sử thi
cây đa thần”, Tồng - Tàng kon K'Rơng nghĩa là anh em Tồng-Tàng con
bà Rơng; Du Bot kon K'Glang (Anh em Du và Bot con bà Glang)...
Đến giai đoạn gần cuối kỳ sử thi, chưa có khái niệm
phân chia dân tộc này hay tên gọi dân tộc, họ vốn thuộc đồng tộc người duy nhất.
Người K'ho là tên của hai anh em chàng trai tên là K'ho và K'he. Cả hai đi làm
dân công dẫn thuỷ nhập điền thời vua Po Klong Giarai của người Champa, thế kỷ
XI, xây dựng đập Nha Trinh chắn ngang sông Cái, vùng Ninh Sơn gần Phan Rang, tỉnh
Ninh Thuận ngày nay. Họ được người Champa biết từ đó và gọi người sống trên
vùng Cao nguyên Lang Biang này là người của hai anh em K'ho, K'he, nay biến
thành dân tộc K'ho.
Nếu đó là truyền thuyết thì nó phải có đầu đuôi của cốt
chuyện, phải có cha sanh mẹ đẻ của nhân vật và những địa danh liên quan. Nhìn
chung bài viết về truyền thuyết về “chàng Lang và nàng Biang” đang được sử dụng
kể trong các tour du lịch vô tình đã phá và làm mờ nhòa đi những giá trị đích
thực vốn có, từ lâu đời trong sử thi.
Tôi cho rằng đó là một sáng tác mới dựa vào hai từ
"Lang Biang" chứ không hề thấy tác giả/ nhóm tác giả căn cứ vào bất cứ
từ tài liệu nào liên quan đến sử thi Lang Biang cả.
Thực tế Lang Biang gồm có hai truyền thuyết. Truyền
thuyết thứ nhất có liên quan đến sử thi được truyền miệng đi vào thi ca, lưu
truyền một cách rộng rãi đến ngày nay. Truyền thuyết thứ hai ít người biết đến,
không liên quan nhiều đến sử thi nhưng nó dễ lôi cuốn người nghe về chuyện tình
yêu.
Truyền thuyết thứ nhất kể rằng, Lang Biang là xứ sở thần
tiên, là nơi được thần Ndu - Đấng sáng tạo - chọn làm "rốn trời" (klõ
trồ) là tâm điểm của vũ trụ, sau khi các vị thần con cái của thần Ndu hoàn
thành sứ mệnh và quay về trời. Thời kỳ vạn vật hữu linh, thần linh, con người
và vạn vật đều nói hiểu một tiếng nói chung duy nhất. Trước khi về trời thần
Ndu muốn các vị thần sai con người và tất cả vạn vật muôn loài cùng nhau xây đắp
lên một ngọn núi cao để làm tâm điểm của vũ trụ gọi là rốn trời.
Quá trình xây đắp ngọn núi, con người và vạn vật muông
thú gặp rất nhiều khó khăn, đắp bên này thì sạt lở bên kia... Chúng nghĩ đủ mọi
cách nhưng vẫn không thành, chúng bèn bày ra lễ vật tế thần. Lễ vật là bảy con
gà trắng, bảy con vịt trắng, bảy con heo trắng, bảy con dê trắng, bảy con trâu
trắng, bảy cô gái và bảy chàng trai...
Cuối cùng phải nhờ đến thần gió là (K'Teh càl thơu)
bay vượt ngàn đại dương rồi mang về rể cây trầm (kră kơl hơu) cắm vào lòng đất,
từ đó mọi thứ đều trở nên dễ dàng cho đến khi hoàn tất.
Lễ tế thần trong lịch sử tế thần được tổ chức tại bãi
đất trống là "Dơng Dạ bềl", rất linh đình, giữa thần linh, con người
muông thú. "Dơng Dạ bềl" và sự tích liên quan, là bãi đất trống bên
kia bờ hồ Đang kia, hiện nay vẫn còn nguyên, được coi là nơi đã diễn ra lễ tế
thần cuối cùng, gọi là: "Tác nang Lang Biang".
Ý nghĩa và quan niệm những chuỗi ngày, vòng đời, sự kiện
liên quan đến con số 7 là sau bảy ngày, bảy tuần, bảy tháng, bảy năm, và sau mười
hai năm sẽ được tổ chức sự kiện đại lễ tuỳ thuộc vào con số liên quan như nói
trên.
Sau lễ tế thần con người bắt đầu lấy từ gốc là
"Kră" làm họ đầu tiên để nhận biết dòng tộc, "Kră" sau này
biến thành họ Krăja#, Kơ să, Cêl, Cil v.v. Họ tách dần rồi mang họ khác, ở trên
núi thì lấy tên ngọn núi, ở gần suối thì lấy tên con suối đó, thành các tộc
nhánh v.v... Tuy nhiên, vẫn còn có nhóm tộc người tách ra không mang họ bởi nhiều
lý do, chúng tôi sẽ đế cập sau.
Truyền thuyết thứ hai, K'Lang là con gái duy nhất của
bà K'Yah và ông Brah Yang. Bà K'Yah là người cai quản vùng đất thuộc cực Nam
vùng Cao nguyên. Bà K'Bồng lấy ông K'Krong sinh ra chàng trai tên là K'Biang.
Ông bà được thần linh giao phó cai quản vùng đất cực Bắc Cao nguyên, là người
giàu có nhất vùng.
K'Lang và K'Biang gặp nhau trong lễ hội "Tác
năng, trai tài gái sắc đem lòng yêu nhau. Tan hội họ ôm nhau thật chặt, bịn rịn
chia tay rồi đường ai nấy về, hẹn sớm ngày gặp lại. Họ đeo vòng đồng cho nhau
cùng ước hẹn sẽ mãi bên nhau.
Chàng K'Biang phi ngựa trắng ngược lên núi, Nàng
K'Lang leo lưng ngựa xuôi về vùng đất Brah Yang ngày nay là Njring, tức Di
Linh.
Vì quá nhớ người yêu nên mỗi lần lên rừng, nàng nhìn
lên cây lá, lá cây héo theo, nàng nhìn cây thông, cây thông cũng buồn theo.
"Glang tơ chi rao, glang tơ Nhho jrop", nàng đi xuống suối tắm hình
bóng của chàng cứ luôn hiện lên đâu đó như bám theo, càng khiến nàng thêm nhớ
nhung da diết.
Thương nhớ người yêu, nhiều ngày liên tiếp nàng không
ăn uống nên ngã bệnh. Mẹ nàng vội đi tìm đến thầy phù thủy, thầy cúng giỏi nhất
Bon nhưng không sao chữa được.
Chàng K'Biang đang mãi mê vui đùa với đàn thú hoang,
chim muông quanh quẩn bên mình thì chợt nhớ đến nàng. Nhìn chiếc vòng đồng trên
tay bỗng nhiên có vết nứt khác lạ, chàng hiểu là điềm báo xấu. Chàng vội về nhà
xin phép cha mẹ rồi leo lên lưng ngựa phi nước đại đến thăm nàng. Nàng nằm vật
vã như sắc không hồn bên bếp lửa. Từ đằng xa nghe tiếng vó ngựa phi nước đại.
Tiếng vó ngựa càng gần càng to dần, đến nhà nàng bỗng ngưng tiếng đột ngột.
Chàng buộc ngựa dưới gốc cây, nhanh như sóc chàng bước
lên nhà sàn bế nàng ôm vào lòng. Nàng từ từ mở mắt. Thấy chàng, người nàng run
lên vì sung sướng hạnh phúc. Gặp lại chàng, nàng rất vui vẻ khoẻ mạnh, chẳng muốn
rời chàng, dù chỉ một nửa bước chân.Nhưng chàng vẫn phải về, vì cả hai bên đều
là con một của hai dòng họ. Quá yêu, nàng thúc giục cha mẹ nàng lên xin hỏi cưới
chàng.
Việc hỏi cưới không thành vì không môn đăng hộ đối. Cả
hai đều rất buồn vì dòng họ và cha mẹ nàng đòi bồi thường thiệt hại danh dự quá
lớn.
Mẹ cha K'Lang sai quân đi lùa về hết đàn thú hoang,
chim muông từ thượng nguồn về. Dòng họ chàng K'Biang biết chuyện không lành sắp
xảy ra cũng sai quân ra chặn.
Cuộc chiến tranh giữa hai dòng tộc khiến K'Lang và
K'Biang tìm đến cái chết khiến cho tất cả vạn vật muôn loài đắp ngôi mộ
"Pơthi" thành ngọn núi Lang Biang. Nước mắt muôn loài khóc thương họ
biến thành dòng sông xanh gọi là Da Ning (đọc là Đa nhing) nay biến từ thành Đa
Nhim.
Lang Biang, 26/6/2022
Nguồn: Văn Nghệ Công
An