Nền điện
ảnh nước nhà như ngôi đền hoang phế từng bị những người có trách nhiệm như Liên
hiệp Điện ảnh phá nát, còn hiện giờ bị phim “mỳ ăn liền” và phim “móc túi khán
giả” bằng mọi giá lấn át...
ĐẠO
DIỄN ĐIỆN ẢNH NÀO CHƯA ĐƯỢC NGẬM CƯỜI NƠI CHÍN SUỐI?
(Tâm
sự với một thí sinh thi trượt năng khiếu điện ảnh)
MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN
Tôi
hiểu nỗi thất vọng, sự đau lòng của em sau đợt thi năng khiếu chuyên ngành đạo
diễn vừa rồi; và mọi lời an ủi lúc này là vô nghĩa. Tôi chỉ có đôi dòng tâm sự
may ra có thể giúp em bình thản lại, dù lúc này có thể một số người thân gia
đình em đang bĩu môi: “Ai bảo cứ khích nó đi vào cái nghề "chân không tới
đất cật không tới trời", mơ mộng viển vông! Kỹ sư, bác sĩ còn chẳng ăn ai,
nữa là cái nghề “đào giếng” (nhại vui cách nói của người miền Trung Trung Bộ)…
Nửa
năm trước, thấy em mê điện ảnh, lân la hỏi han về những gì liên quan tới điện ảnh,
tôi nói chơi: “Thế thì em thử thi vào điện ảnh đi!” Không ngờ, điều đó thổi
bùng lên trong em ngọn lửa khát vọng vốn âm ỉ bao lâu nay; em dẹp bỏ ước vọng
tiếng Nhật, tiếng Hàn cùng hàng đống sách ngoại ngữ để tìm xem các phim kinh điển
thế giới - trước hết là 100 tác phẩm điện ảnh xuất sắc nhất mọi thời đại do
chính những người đang làm việc tại Hollywood lựa chọn, rồi sau đó là các phim
do tôi đề xuất cho em xem với tư cách là người tự phát hiện ra năng khiếu của
mình trước khi đi tham dự năng khiếu của trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội…
Dù
tôi đã báo trước nhiều nỗi gian truân khốn khổ của người làm điện ảnh, nhất là
làm điện ảnh ở nước ta, với trải nghiệm của riêng tôi và một số đồng nghiệp -
những kẻ vẫn tự trào là “sinh ra nhầm địa lý” với nghề nghiệp này, dù đã báo
trước là nền điện ảnh nước nhà như ngôi đền hoang phế từng bị những người có
trách nhiệm như Liên hiệp Điện ảnh phá nát, còn hiện giờ bị phim “mỳ ăn liền”
và phim “móc túi khán giả” bằng mọi giá lấn át; song tất cả những điều đó lại tựa
“lửa đổ thêm dầu” đối với em…
Nếu
vậy thì sự thất bại vừa qua của em - nếu như muốn nói là “thất bại”, chẳng có
chút nghĩa lý gì ư? Nghề nghiệp mà em mơ ước thực ra vẫn ở trong tầm tay em -
trước hết là trong chính đáy sâu tâm hồn em đã bắt đầu nóng bỏng thứ ngôn ngữ của
Nàng Tiên thứ Bảy. Đừng làm như một số bạn viết trên Phây đòi Ban Giám khảo phải
công bố số điểm thi, thậm chí đòi phúc khảo… Tôi không trong Ban Giám khảo và
cũng chẳng hề biết ai làm Giám khảo kỳ này, có thể đoan chắc với em rằng: các
thầy giám khảo cũng như tôi, hết sức trân trọng lòng đam mê điện ảnh của các em
song cũng rất công bằng, phải nói là rất sòng phẳng trước năng khiếu buổi đầu của
các em. Và cuộc thi này cũng là một cuộc “thử thách” nho nhỏ nhưng khá quan trọng
ở chỗ: xem cái khát vọng kia của em có phải là “lửa rơm” chốc lát hay là một
cái gì thật sự âm ỉ, dữ dội, để có khả năng theo đuổi sự nghiệp gian nan suốt một
đời…
Cái
gian nan, thậm chí khốn khổ khốn nạn, cả những sự bất công tồi tệ trong ngành
cùng bao nỗi cay đắng tôi phải chịu đựng, tôi sẽ tiếp tục kể cho em nghe - nếu
em không bị lụi tắt ước vọng… Khi đó, nếu em vẫn không nhụt chí, tôi có thể vui
mừng mà giang tay đón chào em như một đồng nghiệp tương lai! Còn bây giờ, xin
chép tặng em mấy câu sau đây làm hành trang đầu đời - đầu nghề:
BỘ
PHIM LÀ MỘT BÀI THƠ ĐƯỢC VIẾT BẰNG ÁNH SÁNG (René Clair, đạo diễn điện ảnh
Pháp).
TÔI
LÀ MỘT NHÀ THƠ SỬ DỤNG MÁY QUAY NHƯ MỘT PHƯƠNG TIỆN ĐỂ ĐI ĐẾN NHỮNG ƯỚC MƠ
(Jean Cocteau, đạo diễn điện ảnh Pháp).
THÂN
PHẬN LONG ĐONG BI THẢM CỦA ĐẠO DIỄN HUY VÂN
Nhiều
năm qua, tôi lặng lẽ tìm hiểu về cuộc đời của những nhà điện ảnh VN thế hệ đầu
tiên, trong đó, bi thảm nhất có lẽ là đạo diễn Huy Vân. Tôi có ý định sẽ làm một
phim chân dung về đạo diễn này, khi có điều kiện; nhưng vì nỗi thất vọng của
em, hôm nay tôi xin kể sơ sơ mấy điều mà tôi biết – qua các thông tin của đạo diễn
Tự Huy, nhà văn Đoàn Lê, nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà văn Tô Hoàng, nhà biên kịch
Đoàn Tuấn, nhà báo Xuân Đài…
Ông
Huy Vân vốn là một ngòi bút đã có tiếng tăm trong cuộc kháng chiến chín năm chống
Pháp. Ông là dịch giả tiếng Việt sớm nhất và đầu tiên cuốn tiểu thuyết “Thép đã
tôi thế đấy” của nhà văn Xô Viết N. Ostrovsky. Rồi ông trở thành một cộng sự đắc
lực cho R. Karmen, tác giả bộ phim tài liệu nổi tiếng “Việt Nam” trong suốt 7
tháng làm phim ở núi rừng Việt Bắc và trung du, Đồng bằng Bắc bộ với 40.000 mét
phim đã được quay. R. Karmen rất thích nghe Huy Vân kể chuyện, bởi ông kể thực
hay về đất nước mình, dân tộc mình với bao nhiêu truyền thuyết, phong tục, tập
quán. Và ông còn biết nhiều câu tục ngữ Nga… Ông là một người mà R. Karmen liên
tục nhắc đến trong hai cuốn hồi ký “Ánh sáng trong rừng thẳm” và “Việt Nam chiến
đấu”, giữa họ có sự đồng cảm đến nỗi Karmen phải thốt lên: “Vắng anh ấy một
ngày là tôi cảm thấy buồn”.
Cuộc
hôn nhân đầu tiên của nữ nghệ sỹ Tuệ Minh là với đạo diễn điện ảnh Huy Vân. Sau
1954, khi nước ta chuẩn bị bắt tay làm phim truyện điện ảnh, bà Tuệ Minh theo học
lớp diễn viên, còn ông Huy Vân theo học lớp đạo diễn do các giảng viên Liên Xô
hướng dẫn. Tốt nghiệp khóa học, ông Huy Vân tự viết kịch bản, thực hiện một bộ
phim truyện nhựa hơn 100 phút: “Một ngày đầu thu”, kể về lớp thanh niên Việt
Nam theo cách mạng và bước vào kháng chiến. Diễn viên Tuệ Minh đóng vai chính
trong phim này. Một số đạo diễn, như Nông Ích Đạt khen Huy Vân rất nhiều, khen
nhất là Huy Vân rất chịu khó tìm tòi trong công tác đạo diễn và rất yêu nghề. Đạo
diễn Huy Thành minh họa lòng yêu nghề đó: Huy Vân là đạo diễn, vợ đóng vai
chính đến cận cảnh vợ với bạn diễn nam là người tình của nhau trong phim, ôm
nhau thắm thiết, Huy Vân hét rất lớn: ôm chặt vào…
Nhưng
“Một ngày đẩu thu” vừa được khen trên báo chí, bỗng có lệnh “cấm chiếu”, nghe
đâu là “Ăn phải “bả” diễn biến hòa bình của bọn xét lại Liên Xô”! Cho tới hôm
nay, không một văn bản, không một lời lẽ nào giải thích cụ thể. Có điều, kể từ
ngày ấy bộ phim “ Một ngày đầu thu” chưa bao giờ được ra rạp chiếu lại để gỡ tiếng
oan. Ngay bản gốc Négatif phim “Một ngày đầu thu” cũng đã bị hủy hoại bởi ẩm mốc
trong kho tư liệu phim. Còn “vụ án” về đạo
diễn Huy Vân và cái chết đầy bi thảm của ông, cho đến tận hôm nay cũng không một
cơ quan công quyền nào làm sáng tỏ đúng, sai.
Huy
Vân đi tù không án gần sáu năm, có lẽ bởi ông đã đôi lần gặp gỡ trao đổi chính
kiến với những người có tên trong “sổ đen có vấn đề” trước Nghị quyết 9 và hiện
tình đất nước. Hồi học Nghị quyết, thấy cấp trên nói cho bảo lưu ý kiến, nên
ông phát biểu thẳng thừng: “Nghị quyết Trung ương Đại hội 3 đã ghi rõ: xây dựng
miền Bắc vững mạnh, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước, Nghị quyết 3 chưa
ráo mực thì Nghị quyết 9 đã chống lại”. Ông ngây thơ không biết là những lần
ông gặp gỡ các bạn cùng quan điểm như Hoàng Minh Chính, Lưu Động, Trần Đĩnh,
v.v, ở công viên Thống Nhất đều bị công an theo dõi… Rồi ông bị tống vào Hỏa
Lò, sau đó cũng như các bạn “xét lại”, ông bị đày đi các trại giam trên núi rừng
Việt Bắc.
Huy
Vân được ra tù, về Ninh Bình làm ở một hợp tác xã gì đó, ít lâu sau thì về Hà Nội
với vợ con. Nhưng ông bị vợ đuổi ra khỏi nhà, đêm đêm ra ngủ ở vườn hoa Hàng Đậu,
nhớ con thì tìm đến nhà nhìn qua khe cửa, ngắm con ngủ một lúc thì bỏ đi...
Đạo
diễn Tự Huy có lần trong cuộc rượu kể tôi nghe chuyện Huy Vân ăn cắp xe đạp, cố
tình cho người mất xe bắt tại trận để được đưa ra tòa, có dịp kêu oan cho bà
con thiên hạ biết về việc mình bị đi tù không án là trái pháp luật, để được đưa
công khai ra xử toàn thể anh em dính vào vụ án xét lại.
Huy
Vân về Hà Nội không ở một chỗ nào nhất định, nay ngủ nhà này mai ngủ nhà khác,
gần chục nhà của bạn bè ở suốt từ Bạch Mai cho đến Bưởi, còn tiện đâu ăn đấy,
lúc nhà bạn lúc cơm đầu ghế, có khi ngủ ngoài ga Hàng Cỏ hoặc ghế đá vườn hoa…
Khi cán bộ chấp pháp hỏi lệnh tha tù, ông nói như khóc: “Bắt tôi không có lệnh,
thả khỏi tù thì có lệnh tạm tha nhưng lệnh này khi nhập hộ khẩu ở Ninh Bình,
công an giữ lại làm hồ sơ”.
Rồi
ông phiêu bạt vào Sài Gòn tìm việc làm. Có bạn thân gợi ý ông thử đến Xưởng
phim TP. Hồ Chí Minh xin làm đạo diễn, hợp đồng từng phim một, hoặc viết kịch bản
phim truyện, phim tài liệu, nơi nhà văn nhà biên kịch Vũ Thư Hiên cũng rời biên
chế Hãng phim truyện VN vào viết kịch bản cho họ. Sau đó ít lâu có tin Huy Vân
đã cùng một người con gái lên Sơn La, định vượt biên sang Trung Quốc và bị bắn
chết...
Mới
đây, theo nhà văn Thái Kế Toại, ông Huy Vân dịch "Thép đã tôi thế đấy"
một mình chứ không dịch cùng ai như một số người đã kể; ông từng làm phiên dịch
cho Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Liên Xô vào năm 1955, 1956 gì đó. Rồi ông bị bắt ở
Quảng Ninh. Lần sau bị bắt ở Hà Nội giam ở Sơn La, chết trong tù vì bị lao năm
1982. Nhà văn Thái Kế Toại đã làm thủ tục giúp gia đình bốc mộ ông năm 1989...
CÁI
CHẾT ĐAU ĐỚN CỦA ĐẠO DIỄN NGUYỄN ĐỖ NGỌC
Cái
chết đau đớn giữa thời bình của người đạo diễn điện ảnh này đã được nhà biên kịch
Đoàn Tuấn bạn tôi miêu tả là “mang tinh thần võ sĩ đạo” (có lẽ phải thế mới được
duyệt in), trong một bài viết chí tình chí nghĩa của anh, và cũng là duy nhất của
giới báo chí chính thống lẫn ngoài luồng viết về ông: “Nguyễn Đỗ Ngọc: Người
nghệ sĩ mang tinh thần võ sĩ đạo” (CAND oline).
Khi tôi
mới về Hãng phim nhận việc, dáng vẻ phong thái của ông đã chinh phục tôi: vóc
người tầm thước, đôi mắt mơ màng có chút riễu cợt sau cặp kính trắng, mái tóc bồng
bềnh đầy chất lãng tử cùng chòm râu như nhân vật hoàng thân Mưskin trong tiểu
thuyết “Thằng ngốc” của ông già Đốt người Nga (Dostoievsky)…
Chàng
trai Hà Nội- Nguyễn Đỗ Ngọc, anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp, sau
khi tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã tìm đến nghệ thuật thứ
bảy. Rồi chàng cựu chiến binh ấy được gửi sang Bungari học nghề đạo diễn điện ảnh.
Khi tôi bắt đầu hành nghề trên cương vị phó đạo diễn vào cuối những năm 1980,
ông đã nổi danh là đạo diễn sung sức với các bộ phim do ông đạo diễn và viết kịch
bản: Một chiến công (1968); Dòng sông âm vang (1974); Cách sống của tôi (1978);
Đường suối cạn (1984); Vụ án viên đạn lạc (1987)… Ông còn là tác giả một số tác
phẩm văn xuôi gây tiếng vang, đặc biệt truyện ngắn “Tứ tử trình làng”, là dịch
giả cuốn tiểu thuyết trinh thám Bungari “Chỉ chết khi không còn sống”.
Viết
và làm phim đối với Nguyễn Đỗ Ngọc đã là cách duy nhất, tốt nhất để ông và gia
đình nhỏ của ông vượt qua những đoạn trường khổ ải của cả đất nước một thời
ngăn sông cấm chợ, Giá - Lương - Tiền chao đảo, khi mà dường như có rất ít cách
để mưu sinh... Nhưng với người nghệ sỹ nhiều trăn trở như Nguyễn Đỗ Ngọc, lý tưởng
và khát vọng tinh thần bị sứt mẻ, đổ vỡ trước hiện thực đã khiến ông nhiều khi
phải cảm thấy bất lực, tuyệt vọng đến ê chề...
Ông
tỏ ra đặc biệt quý tôi - thằng em “lính mới tò te” vào nghề đạo diễn còn nặng
đuôi văn chương, ham tìm học hỏi các đàn anh trong nghề… Ông đã mời tôi về nhà
ông, căn nhà đối diện vườn hoa Hàng Đậu, được trò chuyện với người vợ tần tảo của
ông - một nghệ sĩ chơi Flut, và cô con gái nhỏ yêu văn chương của ông. Có thể
thấy rõ, ông là một người sống chết vì nghệ thuật điện ảnh, lúc nào cũng bứt rứt,
khát vọng làm được những bộ phim đúng theo ý mình; đi đâu, gặp ai, ông cũng đều
say sưa kể về những ý tưởng các bộ phim mình sẽ làm… Có lần, tôi đã “chịu trận”
ngồi nghe ông xi-nê mồm phim về Thánh Thơ Cao Bá Quát từ chập tối tới khuya, để
cùng ông thấm thía cay đắng rằng: ý tưởng này cùng nhiều ý tưởng nào khác có
liên quan tới sự “thao thức”, “quẫy đạp”, “phá vỡ”, “tìm tòi” đều là sự “cấm kỵ”
tuyệt đối trong lòng nền nghệ thuật hiện thực XHCN! Không ngờ, đó là lần cuối
cùng tôi được gặp ông…
Sống
trong Xưởng phim như một kẻ cô đơn, và hình như Nguyễn Đỗ Ngọc cũng có tên
trong sổ đen nhóm “xét lại chống Đảng” từ nhiều năm trước. Nên khi lãnh đạo Trường
Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội gợi ý ông sang trường thì ông rất phấn khởi,
vì ông sẽ thực hiện được ý định mang những kiến thức và kinh nghiệm làm phim
truyền lại cho các thế hệ sinh viên… Nhưng ông đã mang cái án “nguy hiểm với chế
độ” chuyển từ Xưởng phim sang Trường; lại vốn là con người khí khái, trung thực,
yêu lẽ phải, dị ứng với tất cả những gì khuất tất không lương thiện, nên đã vô
tình bị rơi vào một “cái bẫy” đối với một tâm hồn chính trực như ông!
Kết
cục, giữa thời cả nước đói, túi ông thì rỗng, ông đã bị trường cắt lương, chỉ
được hưởng “trợ cấp xã hội” như một kẻ ăn mày mà với một người có lòng tự trọng
cao mang bao khát vọng sáng tạo sôi sục như ông, khác gì một đòn giáng chí tử!
Mấy
năm sau gặp lại chị Thắng vợ ông ở Sài Gòn, chị kể trong nước mắt: “Anh ấy tập
tễnh (sau lần bị tai nạn ô tô gẫy chân) bước về nhà, ôm mặt khóc nức và kêu lên
với con gái: “Chúng nó cắt nốt cái dạ dày của bố rồi!”…
“Một
đêm mùa hè năm 1989, ông đã quyết định từ giã cuộc đời theo đúng phong cách của
những võ sỹ đạo”. Bạn tôi đã thận trọng và kìm nén đau xót viết như thế; và tôi
có lẽ cũng sẽ viết như vậy, trong những ngày ấy, và cho báo chí, để đỡ “chướng
tai gai mắt” đối với lãnh đạo văn nghệ, và cũng để làm giảm bớt nỗi bi thương
trong cái chết của ông, giảm đi nỗi đau lòng của người thân ông trước một sự kiện
khủng khiếp:
Trong gian bếp lạnh ngắt, ông đã dùng con dao trầu cau rạch bụng, tự kéo ruột mình ra và cắt chúng thành mấy đoạn để khỏi bị cứu sống… Cái chết tiêu cực này, để lại sự bàng hoàng xót thương nhiều năm trong lòng đồng nghiệp, dù sao cũng là một sự phản kháng có ý nghĩa đối với sự đểu cáng, sự “tử tế” giả vờ, thói đạo đức giả che đậy lòng tham lam ích kỷ giờ đây đã bắt đầu tràn ngập, thống trị xã hội…