Không hiểu sao tôi cứ muốn tin rằng những người bán
hàng rong với đám viết lách vốn là cùng một hạng. Mà này, chưa biết ai sang trọng
hơn ai đâu nhé nếu như bạn cũng ngồi trong đêm nghe tiếng họ rao.
NGHỆ SĨ
(Gửi một nhà văn trẻ)
TẠ DUY ANH
Thời còn là sinh viên của trường Viết văn, tôi hay thức
đêm. Ban ngày học trên lớp, tối quây quần bù khú, tán gẫu những chuyện trên trời
dưới biển, nói xấu hạ bệ đồng nghiệp như căn bệnh cố hữu của giới cầm bút nước
nhà và hôm nào cũng đến tận khuya mới ai về phòng người ấy.
Bấy giờ mới là lúc giở đồ nghề ra nghí ngoáy. Có hôm
viết được một lèo. Có hôm ngồi cắn bút đến gần sáng, đầu óc tắc tị.
Trong màn đêm tịch mịch thể nào cũng vang lên tiếng
rao của những người bán bánh mỳ. Không hiểu sao tôi cứ
muốn tin rằng những người bán hàng rong với đám viết lách vốn là cùng một hạng.
Mà này, chưa biết ai sang trọng hơn ai đâu nhé nếu như bạn cũng ngồi trong đêm
nghe tiếng họ rao. Khi đó bạn không nghĩ họ là những người bán hàng kiếm tiền
lẻ mà là những nghệ sỹ thực sự. Những tiếng rao đồng loạt cất lên. Nó khiến tôi
liên tưởng đến bản hoà tấu sau mỗi trận mưa rào. Thôi thì đủ kiểu trầm bổng,
dài ngắn, âm cổ, âm mũi, giọng trong, giọng đục của nhiều vùng miền...
Thế là có đêm tôi chẳng làm gì ngoài việc ngồi nghe tiếng
rao bán hàng. Có tiếng rao đúng nghĩa như một lời thông báo, mời chào, lời rao
vang xa vào đêm. Có tiếng rao như bị nhúng nước trước khi bật qua môi. Có tiếng
rao chất chứa hy vọng, lời rao như đùa cợt với mọi nỗi khổ đang vây bọc. Có tiếng
rao bị tắc nghẽn ở đâu đó trong cổ họng. Có tiếng rao nở hậu. Có tiếng rao thắt
lại, lời rao bị kéo dài mãi ra ở đoạn cuối.
Mỗi lời rao là dấu hiệu nhận dạng một số kiếp qua âm
thanh. Không hiểu sao khi đó tôi cứ muốn được thấy tận mặt từng người bán bánh
mỳ đêm. Tôi muốn chiêm ngưỡng họ như chiêm ngưỡng những biểu tượng của sự can
trường. Bạn tin hay không thì tuỳ nhưng tôi không thể nói khác rằng đêm nào ước
muốn đó cũng cồn cào trong tôi. Nhưng từng đêm cứ lần lượt trôi qua và cái ước
muốn ấy mỗi ngày một bị đẩy ra xa tít tắp.
Đêm nào ghé cửa phòng tôi cũng vẫn chỉ là cậu bé 12, 13 tuổi từ quê bỏ học ra Hà Nội bán bánh mì. Cậu ủ bánh mì trong những chiếc bao tải, nhét gọn trong chiếc thúng rồi đội trên đầu. Tiếng rao của cậu thuộc loại lanh lảnh. Cậu đi theo một hành trình rất có trật tự, của riêng cậu và đương nhiên là tuân thủ quy định phân chia khu vực bán hàng, rất nghiêm ngặt. Miếng ăn kiếm được chẳng dễ dàng gì nên không thể chấp nhận sự tranh cướp, dù vô tình hay cố ý. Làm trái điều đó lập tức cậu phải bán sới đi nơi khác và ở đấy cuộc tranh giành luôn luôn khốc liệt hơn.
Lần theo tiếng rao của cậu bé tôi có thể đoán được cậu
là người biết giữ kỷ luật. Nếu phùng thời được làm quan chắc chắn cậu không hứa
hão huyền như đa số những ông quan hiện thời. Chắc chắn nhân cách cậu cao hơn ối
kẻ ăn trên ngồi trốc. Cậu biết giữ chữ tín với đồng nghiệp và với khách hàng.
Chẳng hạn không phải đêm nào tôi cũng mua bánh mỳ ăn đêm nhưng chưa bao giờ cậu
bé không ghé qua. Cậu biết tôi thích loại bánh mềm trong, giòn ngoài nên luôn
luôn để dành. Những đêm đông rét thấu xương, cậu tùm hụp trong chiếc áo bông to
quá khổ chỉ hở ra độc đôi mắt. Cậu chờ tôi ngẩng lên để tin chắc tôi đã nhìn thấy
cậu. Chỉ khi tôi mỉm cười lắc đầu cậu mới bỏ đi để rồi đêm sau lại hy vọng với
cái nháy mắt tinh nghịch thay cho lời mời. Cũng có hôm cậu nán lại, tò mò hay
có thể là thèm thuồng nhìn những cuốn sách bày trên mặt bàn. Giá mà tôi biết
khi đó cậu bé bán bánh mì đêm nghĩ gì, có thể tôi đã không tiếp tục nghề cầm bút
chỉ sểnh ra là biến mình thành kẻ tráo trở, hèn kém hoặc thậm chí bán rẻ lương
tâm?
Tiếng rao bán hàng đêm đã trở thành một phần của những
gì gắn tôi với Hà Nội.
Rời Trường Viết văn, tôi vay tiền bạn bè mua một căn hộ
dột nát ở tít vùng ven đô. Cách đó không xa là cánh đồng rau của những người
lao động nghèo. Đêm đêm vẳng lên từ đó tiếng ếch nhái kêu đến sốt ruột. Những
ngày đầu dọn về nhà mới, tôi không sao ngủ được. Có cái gì vừa lạnh lẽo, vừa bất
an. Tiếng gió thổi lồng lộn ngoài cửa sổ càng khiến tôi như bị vây bọc bởi nỗi
cô đơn.
Tám năm sau (2002) tôi lại gặp tâm trạng này trong một
đêm thức trắng nhìn tuyết rơi ở cái thành phố miền trung nước Mỹ giàu có. Thành
phố sáng rực các loại đèn mầu, yên lặng gần như tuyệt đối. Giống tám năm trước
tôi bỗng thèm nghe một tiếng rao của cô, cậu bé bán hàng đêm mặc dù hồi đó khi
nó vang lên, lẫn vào tiếng ếch nhái, tôi đã ứa nước mắt. Kiếp người sao mà nhỏ
nhoi, bất trắc, trôi dạt thật vô lường.
Tôi chuyển chỗ ở thêm một lần nữa. Sống trong căn nhà
chắc chắn, nhiều tiện nghi hơn, tôi bắt đầu mắc bệnh nói dai như đỉa về thời
nghèo khổ, như bất cứ gã công thần mạt hạng nào. Một đêm mưa rét sập sùi, nằm
trong chăn nệm tôi không khỏi cảm thấy khoái trá một cách tầm thường vì biết chắc
còn có bao kẻ ước được như mình! Nửa đêm tôi bỗng giật mình thức giấc. Tôi mong
mình nghe nhầm. Lần đầu tiên tôi không chờ bất cứ một tiếng rao đêm nào. Nhưng
khi tôi vừa ngả mình xuống định ngủ tiếp thì cái giai điệu ấy vang lên, có cảm
giác xa xôi như từ một thế giới khác vọng về. Cái giai điệu đích thực của bần
hàn ấy, từng gắn với chốn đô thành nghìn tuổi như một phần của đời sống văn hoá
cổ kính, từng là thứ giai điệu của đêm đối với tôi, giờ đây giống như một lời tố
cáo nghiêm khắc. Tôi hướng tất cả các giác quan ra phía cửa mặc dù biết chắc chẳng
có cậu bé nào chờ ở phía bên ngoài, đôi khi chỉ để nháy mắt một cái.
Tôi bỗng ngộ ra thứ quà tặng và đòn trừng phạt lớn nhất,
với một người cầm bút.