Nhà thơ Nguyễn
Hữu Quý có đa tình đến mấy cũng chỉ ngầm giấu trong tim hoặc tự đạt thượng thừa
che chắn con mắt thế gian. Anh có vẻ ngoài và dường như cả bên trong nữa rất
nghiêm túc, rất chín chắn, rất gương mẫu, có thể gọi là đảng viên 4 tốt một
cách thuần chủng.
NGUYỄN HỮU QUÝ TRƯỜNG SƠN XANH SÁNG MÃI TRƯỜNG SA XANH
PHÙNG VĂN KHAI
Tôi có vô vàn kỷ niệm với nhà thơ Nguyễn Hữu Quý.
Được gặp anh trong trại viết Văn nghệ quân đội tại Đồ
Sơn - Hải Phòng năm 1995. Trước đó, Nguyễn Hữu Quý đã khá chững chạc với các
thi phẩm viết về bộ đội, nhưng phải đến Khát vọng Trường Sơn viết tại trại sau
đó đoạt giải Nhất cuộc thi thơ ngày đó, tên tuổi anh càng định vị chắc chắn
trong lòng bạn đọc, trong làng thơ Việt Nam. Cho tới tận hôm nay, tôi vẫn luôn
cho rằng, sau lứa nhà thơ chống Mỹ như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu,
Thanh Thảo, Vương Trọng, Đỗ Trung Lai... thì chính Nguyễn Hữu Quý chứ không phải
ai khác là một tên tuổi xứng đáng và đã đảm đương rất tốt vị trí tốp đầu các
nhà thơ đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng. Trong trại viết đó,
tôi khi ấy còn là binh nhất rụt rè sợ sệt trước các chị xinh đẹp Như Bình, Trần
Thanh Hà thì tất nhiên Nguyễn Hữu Quý nổi bật về cả sáng tác và tài đọc thơ, dẫn
chương trình vô cùng duyên dáng với giọng âm Quảng Bình nồng nàn da diết không
lẫn được vào đâu. Cũng may cho anh, ngày đó nhà văn Sương Nguyệt Minh luôn có vợ
áp sát chứ không ngôi quán quân để xiêu lòng các mỹ nhân văn chương chưa biết sẽ
thuộc tay ai.
Nói vậy thôi, Nguyễn Hữu Quý có đa tình đến mấy cũng
chỉ ngầm giấu trong tim hoặc tự đạt thượng thừa che chắn con mắt thế gian. Anh
có vẻ ngoài và dường như cả bên trong nữa rất nghiêm túc, rất chín chắn, rất
gương mẫu, có thể gọi là đảng viên 4 tốt một cách thuần chủng. Sau này, đã có
lúc, đã có người hô hoán lên “Nguyễn Hữu Quý đang có biểu hiện tự diễn biến”
thì cứ mặc họ tai liền miệng đấy tự nghe chứ riêng tôi có đem đầu ra chặt cũng
luôn tin anh một lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng và với
Đảng lắm. Nếu Tổ quốc và Đảng có giao anh nhiệm vụ ôm bộc phá tử thủ vào lô cốt,
Nguyễn Hữu Quý cũng sẵn sàng. Nếu giao
Nguyễn Hữu Quý đọc thơ cách mạng tại Văn Miếu từ sáng đến chiều ngợi ca cờ đỏ
sao vàng, máu xương liệt sĩ, Nguyễn Hữu Quý sẽ rưng rưng xúc động mà đọc một mạch
bất chấp giông tố bão lốc, kể cả là bão thị phi lườm nguýt anh cũng cam tâm.
Nguyễn Hữu Quý luôn biết ơn và có cách thức tỏ lòng biết ơn với quê hương, nhân
dân và Tổ quốc, nhất là những người liệt sĩ đã hy sinh.
Trong một cuộc đi với anh về nghĩa trang liệt sĩ,
trong hành trình có tổ chức viếng khu mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi đã thấy
Nguyễn Hữu Quý đứng nghiêm như người lính cảm tử tuyên thệ trước khi xung trận.
Anh đứng lặng phắc tới khác thường. Hai hàng nước mắt đã rịn ra từ lúc nào
trong cái nắng chói chang tháng bảy. Anh khóc không thành tiếng trước mộ vị Đại
tướng đã trở thành một phần lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam, của đất nước
Việt Nam. Tôi bỗng có cảm giác Nguyễn Hữu Quý đang đọc lời thề của quân nhân
trước lá cờ thắm máu đào liệt sĩ. Anh như một tấm gương để chúng tôi noi theo
trong suốt hành trình.
Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý vô cùng tận tụy với công việc.
Làm việc với anh không chỉ dễ chịu mà còn học hỏi được nhiều điều. Anh viết bút
ký rất hay với nhiều chi tiết thực đến ngỡ ngàng. Cũng là chi tiết đó, một người
mẹ liệt sĩ, một người thương binh nặng, có khi chỉ là những binh nhì tuổi mười
tám măng tơ chỉ biết cười mà qua trang viết của anh nó cứ nhói lên ám ảnh và cảm
động. Chúng tôi đã lặng lẽ học tập anh, từ cách thức chọn vấn đề, nhân vật,
phong cách biểu đạt và bỗng nhận ra rằng mình còn lâu lắm mới bằng được anh, nhất
là thơ ca, nhất là viết về các chiến sĩ Trường Sơn và sau này là Trường Sa như
Nguyễn Hữu Quý.
Duyên phận thế nào tôi lại được làm lính của anh. Khi
tôi được điều động từ Truyền hình Quân đội sang Văn nghệ quân đội, anh đã nhận
về Ban thơ trong khi tôi văn xuôi mới là chủ lực. Rồi cũng kỳ lạ làm sao anh
tiên đoán sau này tôi sẽ làm trưởng Ban thơ khiến không ít người bán tín bán
nghi. Sau tôi làm trưởng Ban thơ thật, tổ chức hai cuộc thi thơ không chỉ là
chuyện đất lành chim đậu mà còn có sự dìu dắt của hai vị trưởng ban tiền nhiệm
Nguyễn Hữu Quý và Nguyễn Bình Phương. Cũng bởi do anh mà tôi có được hai tập
thơ Lửa và hoa; Khúc rong chơi từng được Vi Thùy Linh nhất mực khen hay, còn bản
thân Nguyễn Hữu Quý vốn mặn duyên với liệt sĩ đã viết hẳn một bài bình bài thơ Nhắn
tìm đồng đội của tôi vô cùng cảm động.
Xin được trích hai khổ thơ:
Bà kể ngày xưa hai chú
toàn những bị người ta trêu
chắc gì đến khi nằm xuống
môi hồng được một lần yêu.
Bà kể ngày xưa hai chú
lũ cồn bơi vượt sông Lăng
đêm đêm sân đình đập lúa
thì thùm tan cả vầng trăng.
Và lời bình của Nguyễn Hữu Quý:
“Đấy là mẹ của các liệt sĩ. Bài thơ thực sự xúc động
khi những hồi ức về các con đã sống dậy trong câu chuyện của người mẹ giờ đây
đã lưng còng mờ mắt: Bà kể ngày xưa hai chú/ toàn những bị người ta trêu/ chắc
gì đến khi nằm xuống/ môi hồng được một lần yêu./ Bà kể ngày xưa hai chú/ lũ cồn
bơi vượt sông Lăng/ đêm đêm sân đình đập lúa/ thì thùm tan cả vầng trăng. Đó là
những trai tráng khỏe khoắn, hiền lành và cũng rất trong trắng tinh khôi. Những
thanh niên sức vóc đã từng bơi vượt lũ sông Lăng, đập lúa sân đình thâu đêm tận
sáng ấy, khi vào lính, khi ngã vào đất chưa được một lần yêu. Ở đây, Phùng Văn
Khai đã tỏ ra chắc tay khi chọn lựa chi tiết, hình ảnh cho thơ. Không cần nhiều,
chỉ cần hai khổ thơ mà đã diễn đạt được sức vóc, tính khí hai người chú thân yêu
của mình cực kỳ ‘nét’ và rất sinh động”.
Tôi vô cùng trân trọng những dòng viết giản dị và xúc
động của anh về bài thơ.
Nguyễn Hữu Quý vừa gắn chặt với Trường Sơn vừa luôn
đau đáu với Trường Sa. Từ nắm đất đem từ đất liền ra ươm mầm rau xanh nơi trùng
trùng sóng trắng. Từ những hạt cát không chỉ mặn chát nước biển xanh còn thăm
thẳm sắc máu đào của tổ tiên xa xưa và những liệt sĩ ngã xuống hôm nay. Từ những
vạt tóc tướp tơ cháy khét đỏ quạch như tôm luộc của người chiến sĩ đêm ngày
canh đảo đến câu hát dặm hát xoan đem từ đất mẹ níu ná bàng vuông, lá phong ba
tỏa sáng tình người. Những bài viết, nhất là thơ của Nguyễn Hữu Quý về biển đảo
như được chảy ra từ tim óc, tươi ròng, hiên ngang như những cọc Bạch Đằng nghìn
năm đọ cùng sóng gió. Ở Trường Sa, đã nhiều lần Nguyễn Hữu Quý khóc khi đọc thơ
và hỏi han chiến sĩ, nhưng khuôn mặt, nhất là ánh mắt của anh luôn lấp lánh cười.
Một nụ cười hằng tin vào điều mình tin từ những ngày trở thành chiến sĩ Binh
đoàn Trường Sơn năm 1974.
Nếu nói nhà thơ Nguyễn Hữu Quý - Trường Sơn xanh sáng
mãi Trường Sa xanh thực ra chưa nói hết được về anh bởi anh còn vô cùng đam mê
và nặng nợ với biên cương, với bộ đội biên phòng. Tôi từng có nhiều chuyến đi
biên giới Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ với anh. Cuộc nào cũng đằm đẵm kỷ niệm
chất chứa trong lòng. Mỗi khi có tin người chiến sĩ biên phòng đánh án ma túy
hoặc cứu dân trong bão lũ hy sinh, Nguyễn Hữu Quý lại lập tức lên đường tới những
nơi xa xôi heo hút nhất để viết về liệt sĩ thời bình. Dường như anh không chịu
được sự hy sinh trong thời bình nên luôn muốn tìm mọi cách để giảm thiểu điều
vô lý đó. Có những cuộc trò chuyện với các đồn trưởng, chỉ huy trưởng trong đó
có cả các Tư lệnh bộ đội biên phòng, nhà thơ Nguyễn Hữu Quý thường hỏi rất sâu,
rất cặn kẽ về những khó khăn của lính biên phòng. Anh còn nhiều lần đề ra kế
sách để giảm thiểu khó khăn cho người lính nơi mịt mùng biên giới. Tôi luôn có
cảm giác, chỉ khi ở đại ngàn Trường Sơn giữa trùng trùng mộ trắng, hoặc nơi đảo
chìm xa tít tắp chân mây, hay những lúc tận cùng biên giới còn rải rác vết phân
voi, Nguyễn Hữu Quý mới thực sự cháy hết mình. Không phải lối bùng nổ hô phong
hoán vũ hớp hồn người mà chính là sự lặng thầm da diết cháy, và nhất là cháy
sáng trong tác phẩm sau mỗi chuyến đi.
Nguyễn Hữu Quý còn luôn giúp đỡ chúng tôi trong suốt
hành trình tít tắp xuyên Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Anh vừa mặn mòi chuyện
văn chuyện đời vừa hài hước đường ăn nết ở. Không có anh, cuộc đi thường nhạt hẳn.
Ai sẽ làm bia để chúng tôi châm chọc, trêu tròng? Ai sẽ là người sẵn sàng “có ý
kiến thẳng” với thủ trưởng trong yêu cầu quyền lợi trước mắt và lâu dài cho anh
em? Chỉ có thể là Nguyễn Hữu Quý! Thực ra là anh giơ đầu chịu báng, giơ lưng chịu
trận, bôi mỡ cho kiến đốt, chứ riêng anh chơi bời ăn uống được bao nhiêu. Chung
cuộc chỉ bổ béo mấy ông em thuồng luồng rắn ráo mà cầm đầu bọn lếu láo ấy chính
là Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Thế Hùng và Phùng Văn Khai, rồi sau này người đời
toàn đổ oan khuất cho anh.
Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý nghỉ hưu thấm thoắt đã mấy năm.
Chúng tôi như trống vắng một cái gì gần gũi khó nói thành lời. Anh lại trở về với
vùng đất Quảng Bình cát trắng để chưng cất gió cát mặn mòi nơi quê biển thành
thơ. Vẫn là những vần thơ về biên giới xanh, Trường Sơn xanh và thật nhiều vần
thơ về Trường Sa trùng trùng sóng trắng.