Nhà biên kịch Đoàn Tuấn tiếp tục kể về người lính Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế trên chiến trường Campuchia, với tác phẩm “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt” dày 300 trang, do Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM ấn hành.
Nhà biên kịch Đoàn Tuấn
nhập ngũ năm 1978 và chiến đấu ở biên giới Tây Nam. Nhà biên kịch Đoàn Tuấn có
5 năm trong lực lượng tiểu đoàn 8, trung đoàn 29, sư đoàn 307 làm nghĩa vụ quốc tế trên chiến trường Campuchia (thường
gọi tắt là chiến trường K). Ký ức năm tháng tự tay lo tang lễ cho 53 đồng đội,
vẫn ám ảnh nhà biên kịch Đoàn Tuấn khôn nguôi.
Nhà biên kịch Đoàn Tuấn
trong lĩnh vực điện ảnh được công chúng biết đến qua các bộ phim “Chiếc
chìa khóa vàng”, “Đường thư”, “Chuyện tình trong ngõ hẹp”, “Sống
cùng lịch sử”, “Truyền
thuyết về Quán Tiên”... Còn trong
lĩnh vực văn chương, Đoàn Tuấn chỉ chuyên tâm viết để trả món nợ ân tình với đồng
đội cũ đã một thời cầm súng vì “đất bên ngoài Tổ quốc”.
Sau hai tập ký “Những
người không gặp lại”, “Mùa linh cảm” và hai tiểu thuyết “Mùa chinh chiến ấy”,
“Một trăm ngày trước tuổi hai mươi”, nhà biên kịch Đoàn Tuấn ở tuổi 63 tiếp tục
kể về những người lính tình nguyện Việt Nam với cuốn sách “Lời nguyện cầu cho
những linh hồn phiêu dạt” vừa được Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM ấn hành.
Nhà biên kịch Đoàn Tuấn
chia sẻ về sự kiên trì với đề tài này qua hàng loạt tác phẩm:
“Với tinh thần hăng hái nhập ngũ nhưng khi vào biên giới, tiếp xúc với chiến
tranh bằng mắt, bằng tay, bằng cả cảm xúc buồn thương khi chứng kiến những mất
mát, tôi mới
thấy chiến tranh khốc liệt đến mức nào. Đau xót nhất là khi đích thân mình phải
đem tin báo tử cho gia đình đồng đội”
“Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt” là câu chuyện chiến đấu trên đất của chiến
trường K, vùng đất mà người lính tình nguyện Việt Nam đã ngã xuống ngoài đất Mẹ.
Trong ý thức những người lính, đây cũng là đất của anh em láng giềng, máu xương
có đổ cũng để gìn giữ cho ngày mai, sau bóng đêm diệt chủng, đất nước này lại
tươi sáng. Giọt máu ấy thiêng liêng và nghĩa hiệp. Nơi đó, họ đã sống, chiêm
nghiệm với tư cách chứng nhân lịch sử…
Nhà biên kịch
Đoàn Tuấn thông qua nhân vật Ánh - cựu chiến binh, sau khi từ Campuchia trở về,
anh đã xây dựng được một cuộc sống gia đình đầm ấm và đủ đầy; song ký ức về những
năm tháng chiến đấu và hy sinh của đồng đội đã thôi thúc Ánh trở lại Campuchia.
Ánh quyết tâm trở thành nhà sư (lấy tên theo tiếng Khmer là Phteah Saniphap -
nghĩa tiếng Việt là Ngôi nhà Hòa Bình) đi cùng những nhà sư của quê hương Chùa
Tháp cất lên tiếng kinh cầu cho linh hồn những người lính, những người dân
Campuchia đã nằm lại lòng đất trong cuộc chiến.
Từ đó, đi đến những nơi mà tiểu đoàn mình năm xưa từng
chiến đấu để cầu siêu cho linh hồn những đồng đội hy sinh mà không tìm thấy thi
thể, cho những đồng đội chết khát, cho những linh hồn chưa về được với quê Mẹ,
còn lang thang, phiêu dạt nơi đất khách... Những chuyến đi tìm kiếm và làm lễ cầu
siêu cho những linh hồn, của ta và mong muốn gột bớt oán thù của địch, được
siêu thoát về nơi an nghỉ. Suy cho cùng, họ cũng là nạn nhân của chế độ độc tài
hoang tưởng.
Chiến tranh không chỉ là những đoàn quân ra trận; những
bản tổng kết rực rỡ hay những huân, huy chương rạng ngời. Đối với những người
lính, họ nhìn lại chiến tranh bằng cặp mắt soi rõ ngọn ngành từng vụ việc, từng
cái chết, từng lần chết hụt, từng chuyện đau lòng. “Rồi những trận đồng đội
mình chết. Giờ tìm không thấy hài cốt, biết trách ai? Đồng đội chết trên đất
khách quê người, giữa rừng hoang núi lạ. Chỉ lòng mình buồn. Muốn an ủi đồng đội
một câu mà không tìm ra chỗ. Cúi đầu nói với cỏ? Hay ngẩng mặt nhìn trời xanh?
Có những câu hỏi không ai muốn trả lời. Có những câu
chuyện buồn không ai muốn gợi lại. Nhưng một cuộc sống trung thực và can đảm
không cho phép chúng ta sống hời hợt, đại khái. Một thái độ sống chân chính đòi
hỏi chúng ta phải sống kỹ với từng chi tiết của quá khứ, của ký ức. “Ba lô tuổi
trẻ, toàn đồ dùng thiết yếu cho chiến trận. Nhưng tâm hồn non nớt của chúng tôi
va chạm với máu, thuốc súng, sắt thép và cái chết, cũng bị tổn thương. Có ai
nhìn thấy những vết thương ấy? Có ai giám định những vết thương lúc nào cũng rỉ
máu ấy? Và chẳng ai xếp hạng những vết thương ấy. Vết thương trên cơ thể có thể
thành sẹo. Nhưng vết thương tâm hồn, lẽ nào vô nghĩa?”
Điểm nhấn của tác phẩm là vấn đề hậu chấn tâm lý sau
chiến tranh, ám ảnh về những sang chấn tâm lý của những người cựu chiến binh
khi trở về với đời thường. Nhiều người trong số họ bị ám ảnh sâu sắc bởi những
gì mà họ từng chứng kiến trong những năm tháng ở K: sự hy sinh của đồng đội,
cái chết của những người dân Campuchia vô tội, của cả lính Khmer Đỏ. Không chỉ
vậy, những hậu chấn tâm lý vẫn đè nặng lên đa số người dân Campuchia sau thời kỳ
Khmer Đỏ. Bao nhiêu năm qua, mỗi người Khmer khi đi ngủ đều gặp ác mộng. Họ vẫn
nghe thấy những tiếng gọi của người thân, vẫn thấy hình bóng chập chờn của cha
mẹ, vợ con, anh em họ đâu đây. Nhiều người thất lạc gia đình, lưu lạc tha
hương. Họ không thể sống trong ngôi nhà cũ của mình, bởi ở đó, họ không thể chịu
đựng nổi những kỷ niệm yêu thương lẫn ký ức đau đớn.
Nhà biên kịch Đoàn
Tuấn khẳng định: “Dù bạn biết nhiều danh lam thắng cảnh, dù bạn
thưởng thức nhiều món ăn hảo hạng, nhưng không có gì thú vị bằng việc được khám
phá những điều kỳ lạ về cuộc đời và số phận của con người, nhất là những người
từ chiến trận trở về”. Vì lẽ đó, công việc tái hiện những câu chuyện về khúc ca
quân tình nguyện Việt Nam tại chiến trường K này của nhà biên kịch là sứ mệnh mà những đồng
đội đang sống và đã mất giao phó cho ông.
Cuộc chiến nào rồi cũng đến ngày chấm dứt, hòa bình hiện
tại vô cùng quý giá. Dù cuộc chiến đã khép lại nhưng những tổn thương, ám ảnh
còn đó. Chúng ta vẫn còn nghe âm vang, vang vọng mãi tiếng nói cười, tiếng khóc
thầm, tiếng nức nở, tiếng kinh cầu… chan chứa yêu thương, thấm đẫm tình người.
PHẠM
TUẤN