Yves Bonnefoy vốn là người từ toán học, từ triết học bước vào thơ. Ông vừa là nhà thơ lại vừa là nhà thi pháp học. Ông có một lượng tác phẩm đồ sộ ngoài thơ. Đó là những tác phẩm phê bình, những luận án tiến sĩ về thơ tại Pháp và một số quốc gia khác.
MẤY LÁT CẮT TRONG THƠ YVES BONNEFOY
ĐẶNG HUY GIANG
Sinh năm 1924, là một trong những nhà thơ đương đại kiệt
xuất của Pháp, châu Âu và thế giới. Ngoài ra, còn là một cây bút chính luận,
nhà phê bình văn học và nhà nghệ thuật lịch sử có ảnh hưởng lớn đến đời sống
văn học nghệ thuật tại Pháp. Thuở nhỏ, mơ thành một nhà toán học, nhưng sau gặp
gỡ một số nhà thơ, nhà triết học, trong đó có Andre Breton, đã quyết định làm
thi sĩ. Tác phẩm đầu tay xuất bản năm 1947. Năm 2007, đã nhận Giải thưởng Franz
Kafk cộng hòa Czech). Tại Việt Nam, năm 1999, “Thơ Yves Bonnefoy” đã xuất bản tại
Việt Nam qua sự chuyển ngữ của dịch giả Huỳnh Phan Anh.
“Em đã cầm lên một cây đèn và em mở cửa
Làm gì đây với một cây đèn, trời đang mưa, ngày rựng
sáng?”
Đây là một bài thơ được trích ra từ “Thơ Yves
Bonnefoy” do dịch giả Huỳnh Phan Anh chuyển ngữ, được ấn hành qua Nhà xuất bản
Hội Nhà văn năm 1999.
Theo tôi, từ xưa đến nay, bài thơ ngắn nhất là bài thơ
chỉ có một câu. Kỷ lục vẫn thuộc về Ta-go (nhà thơ Ấn Độ, người đoạt Giải Nobel
văn học cách nay đã trên 30 năm). Toàn bào “Không đề” của Ta-go chỉ có 8 từ như
sau: “Chúa cũng tự tìm mình trong sáng tạo”. Kiểu làm thơ Haiku truyền thống Nhật Bản, cũng tạo ra những bài thơ ngắn chỉ
với 3 câu và 17 từ.
Nói chung, làm
thơ ngắn cho ra thơ ngắn, không phải là dễ. Có thể ví một bài thơ ngắn đạt đến
độ thấu tình đạt lý như một thứ thuốc nổ luôn mang trong lòng nó sự giải thoát
những ghìm nén ở mức độ cao. Và cao hơn nữa chính là tư tưởng,
“Em đã cầm lên
một cây đèn” của Yves Bonnefoy (nhà thơ Pháp đương đại) đã làm được như thế.
Câu một là một
câu tả và cũng là một câu mở đầu. Một sự tưởng chừng như rất bình thường đã diễn
ra. Một cô gái chuẩn bị ra đường với hai động tác gần như cùng một lúc: Cầm một
cây đèn và làm động tác mở cửa.
Câu hai là câu
của tâm trạng và cũng là câu kết thúc. Về thực chất, câu này là một câu hỏi: Làm
gì đây với một cây đèn khi mà trời đang mưa và ngày thì đang rựng (rạng) sáng?
Câu này có thể
tạm “giải mã” như sau: Ánh sáng của một cây đèn không còn ý nghĩa gì nữa bởi nó
bị hai “thế lực” đe dọa. Thứ nhất, nó sẽ phụt tắt trước mưa. Thứ hai, Nếu không
bị mưa “hủy diệt” thì nó cũng bị ngày (hoặc bình minh) “hủy diệt”. Đơn giản vì
ánh sáng của nó quá yếu ớt trước ánh sáng của ngày đang bùng phát.
Sau sự “giải
mã”, ta mới thấy cần phải yêu thương và chia sẻ với sự bất lực và những hạn chế
khó vượt qua nổi của mỗi con người, của mỗi thân phận hơn. Dẫu vậy, con người
ta vẫn phải đối mặt với cuộc sống và vẫn phải “cầm lên một cây đèn”.
Chưa kể, “Em
đã cầm lên một cây đèn…” còn là một bài thơ kiệm lời, được viết tự nhiên như
không và sống động như một vài thước phim quay chậm, thậm chí rất chậm và rất ấn
tượng.
Một bài nữa: “Bất toàn là đỉnh cao”:
Có điều là phải hủy diệt, và hủy diệt, và hủy diệt
Có điều là sự cứu rỗi chỉ có được bằng cái giá đó.
Phá tan bộ mặt trần trụi trồi lên trong đá hoa
Đập vỡ mọi hình dạng, mọi cái đẹp.
Yêu cái toàn bích bởi đó là ngưỡng cửa
Nhưng chối từ nó ngay khi tận mặt, hãy quên nó, cái đã
chết.
Bất toàn là đỉnh cao”.
Đây là bài thơ ở dạng “thơ định đề”, tứ được quy nạp
ngay ở hai câu mở đầu. Vấn đề là phải liên tục hủy diệt để cứu rỗi và tất cả
“chỉ có được bằng cái giá đó” (hoặc cách đó).
Tiếp theo mạch
thơ được diễn dịch cụ thể hơn: Để làm được điều đó thì phải “phá tan bộ mặt trần
trụi trồi lên trong đá hoa” và phải “đập vỡ mọi hình dạng, mọi cái đẹp”.
Rồi lôgic tiếp
theo là: Phải yêu cái toàn bích bởi nó là ngưỡng cửa”, nhưng khi gặp ngưỡng cửa
rồi thì phải từ chối nó, quên nó, bởi nó là “cái đã chết”. Và chúng ta không được
phép dừng lại, phải tiếp tục hành trình hủy diệt. Nhưng hủy diệt ở đây không chỉ
là hủy diệt mà là tiếp tục tìm kiếm, chinh phục và sáng tạo.
Bài thơ kết lại ở câu thật chí lý: “Bất toàn là đỉnh
cao”.
Thêm một bài nữa: “Tên gọi đích thực”:
“Em là đền đài kia, tôi gọi sa mạc
Là giọng nói kia, bóng tối, là khuôn mặt kia, sự vắng
bóng
Và khi em ngã vào đất cằn
Tôi gọi hư vô, ánh chớp đã mang em đi.
Chết là vùng đất em yêu dấu. Tôi đến đây
Vĩnh viễn bằng những con đường tăm tối của em
Tôi hủy diệt ước vọng em, dáng hình em, trí nhớ em
Tôi là kẻ thù không thương xót của em.
Tôi gọi em là chiến tranh, và tôi tước đoạt
Những tự do chinh chiến nơi em, và tôi được
Trong đôi bàn tay tôi, khuôn mặt em tối tăm, xuyên thấu
Trong trái tim tôi, vùng sáng choang giông bão kia”.
Trong bài thơ
này, em chính là “đền đài”, là “giọng nói kia”, là “khuôn mặt kia”, là “sự vắng
bóng”. Đến “khi em ngã vào đất cằn”, đến khi “ánh chớp mang (hình ảnh hoặc bóng
hình) em đi”, anh chỉ còn một cách: “Gọi hư vô”. Mặc dầu vậy, anh vẫn chinh phục
em đến cùng: “Tôi hủy diệt ước vọng em, dáng hình em, trí nhớ em..” Và cuối
cùng, tên gọi đích thực của tình yêu là “chiến tranh” và “những tự do chinh chiến
nơi em” mà kết quả là: “Và tôi được/ Trong bàn tay tôi, khuôn mặt em”, để rồi
“trong trái tim tôi, (một) vùng đất sáng choang…”
Trong một bài khác: “Một giọng nói khác”, cũng có ý
này, nhưng được triển khai có vẻ thực chứng hơn và gần gũi hơn: “Tôi sẽ sống
trong em, tôi sẽ tước đoạt trong em/ Mọi ánh sáng/ Mọi hiện thân, mọi cản trở
ngầm, mọi luật lệ/ Và trong khoảng trống, nơi tôi nâng em lên, tôi sẽ mở ra/
Con đường sấm sét…”
Đây là hai bài
thơ mang hơi hướm dữ dội, khốc liệt và một lần nữa, chất “hủy diệt để sáng tạo”,
“sáng tạo nhờ hủy diệt” hoặc “hủy diệt song hành với sáng tạo và ngược lại”…vẫn
tiếp tục tiếp diễn.
Điểm cần nhấn mạnh: Cả 4 bài thơ dẫn ra ở trên đều có
tứ và chúng là 4 cái phôi, 4 cái cốt lõi lạ. Cũng có thể ví chúng như những khoảnh
khắc lóe sáng lạ thường của những tia chớp.
Sau chót, có thể
dẫn thêm một bài thơ nữa mang tên “Nghệ thuật thi ca”. Theo tôi, chưa có ai nói
đến một khái niệm mà có thể cô đọng, sinh động và cũng thật biểu tượng, thật
thi ca như thế này:
“Bị vét cạn là cái nhìn ở ngoài đêm tối này
Bị khóc chặt và hong khô là đôi bàn tay
Người ta đã điều hòa cơn sốt. Người ta đã bảo trái tim
Hãy là trái tim. Có một loài quỷ dữ trong các đường
gân này
Vừa bỏ trốn vừa kêu la.
Trong miệng có một giọng nói buồn thiu đẫm máu
Được lau sạch và gọi trở lại”
Trong một số bài khác, độc giả có thể tìm ra những đơn
vị câu ấn tượng trong cách nói của Yves Bonnefoy. Đó là “Lời nói cũng cần một vật
chất” trong “Để xuất hiện ánh sáng thăm thẳm…”Đó là “Niềm vui cứu vớt niềm vui/
Tình yêu cứu vớt tình không yêu” trong “Miệng, hẳn em đã uống…” Đó là “Và khi
tôi nói to trong thế giới vô ích/ Tôi có em trên những ngả đường của giấc ngủ
mênh mông” trong “Ngọn đèn, người ngủ”. Đó là “Trong niềm cô đơn của máu/ Vào bờ
vai trần của ước mơ phù phiếm” trong “Điều tản mạn, điều không thể chia cắt”…
Theo dịch giả
Huỳnh Phan Anh: “Yves Bonnefoy nói gọn: Thơ là một hành vi nhận thức, là cuộc
truy tìm ý nghĩa, không phải truy tìm từ. Bởi những từ khi thốt lên, chúng vừa
chỉ định vừa xóa nhòa chính sự vật. Bởi cách viết, nói theo ông, là rào cản, là
sự vắng bóng. Nhà thơ phải chấp nhận định mệnh của mình là dùng từ, là quyết định
một cách viết, đồng thời làm sao nói lên cái thật mà không làm nó biến tính,
không che giấu nó lần nữa, đánh mất nó trong tất cả những gì gọi là ý tưởng,
huyền thoại, ẩn dụ hay ảo tưởng nghệ thuật. Vấn đề không phải là thần thánh hóa
chữ nghĩa hay cách viết vốn là phương tiện, mà từ hư vô và vắng bóng chúng đã tạo
nên, tìm tới vén mở lời nói đích thực, hiện diện đích thực, nơi chốn đích thực.
Phải chăng người ta viết trong ám ảnh của cái bên ngoài, trong hy vọng ở một bờ
cõi khác mà chữ nghĩa là một hứa hẹn? Thơ là tiếng nói tối thượng, thơ cũng là
hy vọng, khát vọng về đời thực và lối sống tối hậu “tập hợp được những vật thể
xa xôi và gần gũi trong một sự đồng thuận”, có khả năng đầy lùi khủng hoảng và
những nhiều nhương”.
Từ xuất phát ấy, quan niệm nghệ thuật ấy, Yves Bonnefoy đã làm thơ. Và chỉ bằng mấy
bài thơ như mấy lát cắt trên thôi, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra một giọng thơ
riết róng, triệt để trong một phong cách thơ uyển chuyển, biến hóa, phức hợp với
những tứ thơ độc đáo, khác lạ.
Cho nên, cũng không phải vô cớ, mà nhiều năm qua, Yves
Bonnefoy từng là một trong số ứng viên sáng giá của Giải thưởng Nobel về văn
chương./.