Nhà thơ Trần Ngọc Trác xác nhận Trịnh Công Sơn sáng
tác “Tình
khúc ơ bai” nhân
chuyến đi thực tế tìm tư liệu sáng tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số K’Ho.
Đó là thôn Đồng Đò, xã Đinh Lạc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Nay, thôn Đồng
Đò thuộc về địa phận hành chính của xã Tân Nghĩa, huyện Di Linh.
ĐI TÌM CÂU HÁT Ơ BAI
TRỊNH CHU
“Tôi đi bằng nhịp điệu một hai ba bốn năm/ Em đi bằng
nhịp điệu sáu bảy tám chín mười/ Ta đi bằng nhịp điệu nhịp điệu không giống
nhau/ Ta đi bằng nhịp điệu nhịp điệu sao khác màu…”
Tình khúc ơ bai (ơ bai, tiếng K’Ho, đọc
thành ơ vai trong tiếng Việt) được Trịnh Công Sơn viết ở giọng Đô trưởng
(C major), điệu Valse, gồm 2 câu nhạc. Câu nhạc 1, Trịnh Công Sơn sử dụng nhịp
3/4, đến câu nhạc 2, nhạc sĩ chuyển tiết tấu sang 2/4, làm cho câu nhạc trở nên
dồn dập, sống động. Giai âm chủ đạo của Tình khúc ơ bai là giai âm
ngũ cung.
Tuy vậy, Trịnh Công Sơn có biến tấu một đôi nốt nhạc,
tạo sự khác biệt, nhằm làm cho giai điệu bài hát trở nên mênh mang hơn. “Trịnh
Công Sơn đã viết Tình khúc ơ bai sau chuyến đi thực tế trên đất Lâm Đồng”,
nhạc sĩ Đình Nghĩ, Chi hội trưởng Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam tại Lâm Đồng, cho
hay. Trước đó, nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng, nhà thơ Trần Ngọc
Trác, cũng xác nhận Trịnh Công Sơn sáng tác Tình khúc ơ bai nhân chuyến
đi thực tế tìm tư liệu sáng tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số K’Ho. “Đó là
thôn Đồng Đò, xã Đinh Lạc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Nay, thôn Đồng Đò thuộc
về địa phận hành chính của xã Tân Nghĩa, huyện Di Linh”, nhà thơ Trần Ngọc Trác
nói rõ.
Thế rồi, tôi đã phải vắt dòng lịch sử, tìm về những ký
ức rời, qua câu chuyện của một người trong cuộc, nhạc sĩ Đình Nghĩ, để lần giở
nguồn cơn cháy khát giúp Trịnh Công Sơn làm nên Tình khúc ơ bai. Nhạc sĩ
Đình Nghĩ kể, khoảng tháng 3/1987, bà Cao Thị Quế Hương, Phó Chủ tịch Hội Liên
hiệp Phụ nữ tỉnh Lâm Đồng lúc bấy giờ, dẫn đoàn nhạc sĩ đi thực tế tại các huyện
Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lộc và TP Đà Lạt. Trong chuyến đi đó, phía Sài Gòn có
các nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Hoàng Hiệp, Miên Đức Thắng và Trần
Long Ẩn; phía Lâm Đồng có Mạnh Đạt, Đình Nghĩ, Sóng Trà, Duy Thanh và Phan Bá
Chức. Khi đến thôn Đồng Đò, đoàn có ghé thăm gia đình chị Ka Nheo, Chủ tịch Hội
Liên hiệp Phụ nữ xã Đinh Lạc. Chị Ka Nheo có đem rượu cần mời khách. Các già
làng và các sơn nữ trong thôn đều đến.
Mọi người ngồi
quanh ché rượu. Cần rượu cứ thế mềm môi vít cong, khách trước rồi đến chủ, từ
chủ lại qua khách. Men rượu cần càng nồng, tiếng hát lại càng vang xa, xa mãi.
“Trịnh Công Sơn và các nhạc sĩ đang ngồi quây quần cùng bà con bên trong ngôi
nhà dài, bỗng một bé gái K’Ho xin hộp quẹt ga (bật lửa) của anh Trịnh Công Sơn.
Lúc ấy, anh Sơn đùa: “Vậy thì theo anh về Sài Gòn nhé!”. Em gái K’Ho ngượng nghịu,
bật thốt: “Ơ bai!”. Chị Ka Nheo giải thích: “Ơ bai” trong tiếng K’Ho có nghĩa
là “Không chịu!”. Sau chuyến đi thực tế đó, Trịnh Công Sơn có bài Tình
khúc ơ bai”...
Cũng liên quan đến Tình khúc ơ bai, ngày
17/11/1988, từ TP Hồ Chí Minh, Trịnh Công Sơn có mấy lời thư gửi lên Đà Lạt cho
bà Cao Thị Quế Hương, người trực tiếp đưa các nhạc sĩ đi thực tế. Nội dung bức
thư đã được bà Cao Thị Quế Hương công bố trên Tập san Khát Vọng do
Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành, tôi xin chép lại: “Quế Hương thân mến! Gửi lên
Quế Hương 3 bài hát đã thất lạc. Bài mới chưa viết được vì bận rất nhiều công
việc cộng thêm bị đau suốt cả tháng nay vì cụp xương sống không di chuyển được.
Về lời bài hát ơ bai, nếu ngại người K’Ho hiểu lầm, thì Quế Hương nên cắt nghĩa
cho họ. Chữ “khác màu” không có nghĩa là màu da mà chỉ là màu sắc của hòa âm cuộc
sống. Và chính đoạn kết ơ bai chính là sự phủ nhận sự khác biệt trên. Chúc Quế
Hương vui và khỏe. Thân ái. Ký tên Trịnh Công Sơn”. Ở phần tái bút, Trịnh Công
Sơn viết: “Gửi mấy cái ảnh chụp ở lần gặp ở buôn người dân tộc K’Ho”.
Cứ theo cách nói của Trịnh Công Sơn, “đoạn kết ơ bai
chính là sự phủ nhận sự khác biệt trên”, tức màu sắc của hòa âm cuộc sống, rồi
thử đem ra đối chiếu với phần dịch nghĩa từ “ơ bai” của bà Ka Nheo, tôi nhận thấy
không được ổn cho lắm. “Ơ bai” dịch thành “không chịu” không những không được
chuẩn xác mà còn chẳng ăn nhập gì với “sự phủ nhận sự khác biệt trên” cả. Vậy,
“ơ bai” trong tiếng K’Ho có nghĩa là gì? Bà Ka Triều, người K’Ho, ngụ xã Đinh
Trang Hòa, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, nói: “Dịch chữ “ơ-bai” trong ngôn ngữ
K’Ho thành “không chịu” trong tiếng Việt là chưa thật sự chính xác. “Không chịu”
trong tiếng Việt nếu chuyển ngữ sang tiếng K’Ho thì phải là “ơ gơ dăn”, “không
thích” là “ơ gơboh”. Còn nghĩa của từ “ơ bai” lại là “không đâu!”.
Đến đây, sự giải nghĩa của Trịnh Công Sơn đã trở nên
sáng rõ: “Sông cạn đá mòn, sông cạn đá mòn/ Làm sao ta gặp, làm sao ta gặp, được
nhau/ Ơ bai à... á.../ Ơ bai à... á.../ Ơ bai à... á.../ Ơ bai à... á...!”…
“Ngày ấy, anh Sơn đến đâu cũng uống rượu, không bao giờ uống bia. Không có rượu
ngoại (Tây), anh uống rượu đế (quốc lủi). Trong đoàn chỉ có mỗi Đình Nghĩ chịu
đựng được tính khí này của anh và tiếp chuyện cùng anh có khi từ đêm cho đến
sáng”, nhạc sĩ Đình Nghĩ nói thêm.
Đồng Đò như quán trọ ven đường mà Trịnh Công Sơn đã có
lần buồn chân ghé chơi rồi để lại Tình khúc ơ bai trên hành trình ca
thơ của mình. Câu nói bật thốt của em gái K’Ho ngày nào cũng chỉ là những gợi mở
để Trịnh Công Sơn ưu tư về sự hòa âm cuộc sống. Tôi lại bắt chước Trịnh, cưỡi
xe gắn máy nhắm hướng Bảo Lộc - Di Linh thẳng tiến đến thôn Đồng Đò. Có điều
tôi đến đây không phải để sáng tác một Tình khúc ơ bai mới. Tôi đến Đồng
Đò để được nghe tiếng chân trần lên non và đứng một mình lặng ngắm dáng ai nhạt
nhòa nơi nẻo vắng.
Nguồn: Văn Nghệ