Ở làng cũng có một vài gia đình khá giả, là do làm thương mại, dịch vụ. Còn đa số người làm nghề nông thì chẳng thể giàu được. Cấy lúa bây giờ không ăn thua. Trồng các thứ cây khác thì rất hẹp đầu ra. Chăn nuôi thì phập phù.


Cần một đại quy hoạch mới về nông thôn

NGUYỄN THÀNH PHONG

Nông thôn hiện nay đã thay đổi rất nhiều. Đó là thành quả của công cuộc đổi mới và phát triển. Đặc biệt là những thay đổi từ phong trào xây dựng Nông thôn mới nhiều năm gần đây. Diện mạo đặc trưng của nông thôn là làng, đã trở nên tươi sáng, sinh động, vượt thoát ra khỏi cái ấn tượng làng thôn lam lũ trong lịch sử kéo dài hàng mấy ngàn năm…

Một trong những động lực của sự thay đổi ấy là giao thông kết nối từ làng xã lên huyện tỉnh và thành phố. Sự kết nối này làm làng quê trở nên gần gũi với cư dân thành thị vốn là những người sinh ra và lớn lên ở làng. Bây giờ, có nhiều con đường để trở về làng, nhất là những làng thôn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Ngày trước, tôi đi từ Hà Nội về làng tôi, phải mất mấy đận xe tàu, có khi từ sáng sớm đến tối mịt, hoặc phải ngủ lại thị xã Thái Bình, hôm sau mới đạp xe về làng được. Nhưng giờ đã có đến ba, bốn con đường về làng, chỉ non hai tiếng là tới. Có khi cuối chiều làm việc xong, chạy về làng ăn cơm tối, trò chuyện chán rồi lại lên, mai đi làm bình thường. Làng tôi giờ đô thị hóa mạnh mẽ lắm. Con đường qua làng như đường tỉnh, rầm rập xe chạy cả trong đêm, đèn đường sáng trưng. Nhà toàn xây hiện đại. Và các hình thức dịch vụ cũng chả kém gì phố huyện…

Nhưng như một chu kỳ phát triển, sau những tầng nấc lên cao, thì lại phải nghĩ đến sự thay đổi để càng ngày càng phù hợp hơn với xu thế của thời đại mà vẫn giữ được bản sắc và những giá trị căn cốt. Với nông thôn hiện nay cũng vậy. Trong những phấn khởi, tôi lại bắt đầu nhìn ra những buồn lo. Cứ nhìn ngắm kỹ và suy ngẫm từ cái làng của mình, là rõ. Nhiều nhà xây to đẹp hơn, nhưng là từ tiền ở đâu mang về. Đường đi lối lại trong làng tôi cũng đẹp, là một phần từ ngân sách nhà nước, còn lại thì xã hội hóa, từ các doanh nhân làm ăn thành đạt gửi về đóng góp.

Ở làng cũng có một vài gia đình khá giả, là do làm thương mại, dịch vụ. Còn đa số người làm nghề nông thì chẳng thể giàu được. Cấy lúa bây giờ không ăn thua. Trồng các thứ cây khác thì rất hẹp đầu ra. Chăn nuôi thì phập phù. Như nuôi lợn ấy, có nhiều lúc giá xuống bán rẻ như cho, chưa kể nhiều đợt dịch bệnh bất thường nữa…

Làng ngày thường vắng vẻ lắm. Thanh niên đi làm ăn xa, khắp các nơi trong cả nước. Ở lại làng thì một số người cũng vào mấy xưởng may xuất khẩu. Làng toàn người già, đến trẻ con cũng vắng bóng. Nhiều người bảo là làng “rỗng”, mỗi năm chỉ lấp đầy được đôi ba bận, đông đúc, ồn ào dịp lễ tết...

Bây giờ trồng cấy lúa gạo không có giá trị như thời cái ăn còn thiếu thốn nữa. Chi phí sản xuất cao mà giá bán thóc gạo, nông sản rất thấp. Trong khi cũng lao động ấy, đi làm việc khác, có khi ngay trong làng xóm của mình, thì thu nhập cao hơn. Một số hộ gia đình cố gắng duy trì canh tác, chủ yếu là để tự túc thóc gạo. Còn nếu tự túc được thóc gạo theo cách khác là người ta cho thuê ruộng, không cho thuê được thì bỏ luôn. Theo thống kê thì tổng diện tích ruộng bỏ hoang hiện nay là rất lớn và càng ngày càng tăng lên. Câu khẩu hiệu “dân cày có ruộng” bây giờ không thống thiết như xưa nữa.

Tôi nhớ, đã có hồi người ta nói rất mơ mộng rằng: Để đủ gạo cho cả nước ăn và xuất khẩu thì nên để cho đồng bằng Nam Bộ làm là tốt nhất. Còn đồng bằng Bắc Bộ chỉ nên trồng ít lúa thôi, những loại đặc sản ấy, số đất thừa ra thì nghiên cứu trồng cây công nghiệp, rồi làm công nghiệp, làm du lịch, văn hóa... Bây giờ thấy chả là mơ mộng viển vông nữa, mà đúng là câu chuyện thực tế rồi.

Lại thêm hiện trạng này nữa. Đất ruộng bỏ hoang nhưng làng thì có cảm giác càng ngày càng bé lại vì nhà mới được xây thêm. Về đến làng mà lại gặp nhà ống, nhà phân lô chen chúc nhau. Tôi đã đi đến nhiều vùng nông thôn ở Mỹ, ở Canada, Hàn Quốc... Nông thôn của họ là những cánh đồng, những trang trại mênh mông. Bên cạnh đấy là những khu rừng, hồ nước cũng mênh mông, là sinh thái, là thiên nhiên, chứ không phải chỉ các ruộng lúa nối tiếp nhau như ở ta. Và làng của họ cũng ra… làng. Nhà nông dân là nhà to, vườn rộng, là hồ nước mát lành, là thảnh thơi, xe ô tô về làng đỗ đầy. Làng của chúng ta càng ngày càng nhỏ. Đất làng mà thành phân lô, xây nhà ống, đường đi lối lại bé tí, thì không thở được, dần dần rồi sẽ chẳng còn là làng nữa…

Vì những lý do nói trên, có lẽ bây giờ chính là đã đến lúc ta cần làm lại một đại quy hoạch mới về nông thôn để hướng đến tương lai. Phải nhanh chóng chuyển đổi sang những cách thức làm nông nghiệp kiểu mới để nâng cao giá trị của những cánh đồng ngàn đời nay. Nông nghiệp kiểu mới làm tăng giá trị của đất và như thế thì sẽ không cần thật nhiều diện tích trải ra mọi nơi như hiện nay. Tôi nghĩ đến những mô hình công nghiệp nông lâm nghiệp, như của Tập đoàn THACO Trường Hải mới triển khai ở Thái Bình, hay các mô hình nông nghiệp mới của Tập đoàn Vingroup, FLC hay của Tập đoàn TH Truemilk nữa.

Đầu năm 2019, Tập đoàn công nghiệp cơ khí và ô tô THACO Trường Hải công bố quy hoạch và triển khai thực hiện Dự án Khu công nghiệp chuyên phục vụ nông nghiệp Đồng bằng Bắc Bộ tại Quỳnh Phụ, Thái Bình. Đó là một Khu công nghiệp chuyên phục vụ nông nghiệp, tổng diện tích 250 ha, gồm các phân khu chức năng, như: Phân khu đầu vào gồm các nhà máy sản xuất vật tư nông nghiệp; Trung tâm nghiên cứu - đào tạo; Cánh đồng thực nghiệm... Phân khu chế biến đầu ra gồm hệ thống kho chứa và bảo quản nông sản; Các nhà máy chế biến lương thực... Phân khu cảng sông gồm cảng chính kết nối Khu công nghiệp với các tỉnh thuộc Đồng bằng Bắc Bộ và phân khu bến thủy nội đồng kết nối khu công nghiệp với các cánh đồng lúa trong tỉnh Thái Bình. Chủ tịch THACO Trần Bá Dương nói rằng: “Dựa trên những nguồn lực tích lũy được từ quá trình phát triển,  THACO  có thể tham gia đóng góp cho sự thay đổi cơ bản và phát triển ngành nông nghiệp của đất nước với tầm nhìn là: Trở thành một trong những doanh nghiệp nông nghiệp hàng đầu theo hướng sản xuất công nghiệp có quy mô lớn áp dụng cơ giới hóa, tự động hóa bằng các thiết bị chuyên dụng và quản trị dựa trên nền tảng số hóa, theo chuỗi giá trị khép kín và chuyên biệt cho các loại nông sản, trước mắt là trái cây và ngũ cốc, mà chủ yếu là lúa, trong đó có ứng dụng công nghệ cao và sử dụng vật tư nông nghiệp hữu cơ và sinh học”. 

Tôi cho rằng, từ thực tế triển khai một dự án tầm cỡ như thế ở Thái Bình, ngoài việc tạo ra sự thay đổi lớn ở địa phương, thì còn cho ta rất nhiều quan sát và kinh nghiệm để thúc đẩy tư duy với tầm nhìn xa nhằm xây dựng một “Đại quy hoạch mới cho nông thôn Việt Nam” trong tương lai. Cùng với việc dồn điền đổi thửa tạo nên những cánh đồng lớn làm nông nghiệp trình độ cao, đất được tăng thêm giá trị thì sẽ thừa ra diện tích, sẽ dùng để chuyển đổi mà mở rộng làng, mở rộng những không gian sinh hoạt cộng đồng, không gian tín ngưỡng, văn hóa tâm linh, rồi các khu du lịch sinh thái ngay gần các làng, chuyển đổi để phá đi không gian thổ cư chật hẹp. Tất cả những điều ấy là điều kiện vật chất để bồi đắp nên cái nền tảng vững chắc của văn hóa làng, là để gìn giữ cái gốc để con người ta hướng về tổ tiên, về nơi cố hương…

Thời hiện đại này, mỗi dịp được nghỉ dài vài ba ngày nhân dịp lễ nào đó trong năm, trong các phương án lựa chọn nơi đi, thì về làng cũng là một hướng để những người ta tính đến. Nếu làng ấy biết vun đắp, gìn giữ được những dấu tích người xưa, tạo nên một không gian văn hóa, không gian sống đầm ấm yên vui, cũng là một cách nối bền truyền thống. Đừng nghĩ kích cầu du lịch ở tận những đâu. Về làng cũng là một loại hình du lịch. Tiêu tiền cho mình trong những ngày nghỉ ở làng cũng là một cách làm giàu cho quê hương thật nhiều ý nghĩa. Văn hóa, truyền thống làng quê được bồi đắp hơn thì con người càng bền gắn bó với tổ tiên, càng yêu quê hương đất nước của mình hơn.