Trương Nam Chi luôn là người “thương yêu tận đáy
tim mình”, trong
lòng lúc nào cũng không yên trước đại dịch Covid-19 với một nỗi lo thường trực “trái đất này, còn sức
trụ nổi không”?
ĐẮM CHÌM MÂY GIÓ TRĂM NĂM…
ĐẶNG HUY GIANG
Thơ là khoảnh
khắc bừng rộ của tâm trạng. Thơ là sự lay gọi và cũng là tiếng vọng từ miền xa thẳm.
Thơ là nỗi niềm không dứt đầy duyên nợ, vừa ràng buộc, vừa cởi bỏ một cách tự
nhiên nhất, con người nhất. Thơ mang dấu ấn cá nhân và dấu ấn thời cuộc…
Không hiểu sao, khi đọc “Dạm ngõ thu vàng” - tập hợp thơ mới nhất của nữ nhà thơ Trương Nam Chi, tôi lại nhất mực nghĩ như thế và cũng nhất mực tin như thế?
Tập thơ hấp dẫn tôi ngay từ bài đầu tiên có tên là “Chiều buông”:
“Sông
ơi. Biển trước mặt rồi
Ngày tàn lụi. Đất và trời trống trơn
Ta ngồi. Giữa đỉnh chon von
Xòe tay đỡ những mất còn chiều rơi”
“Chiều
buông” có cả “cảnh”, cả “tình” và cả “sự”. Một tứ thơ vô tình mà hội đủ ba yếu
tố đó, thật là hiếm hoi! Biển là sự chết của sông. Trong lúc hoàng hôn đến cũng
là lúc ngày đang tàn lụi, chợt có cảm giác đất và trời cũng trống huơ trống hoác
như không còn gì, như không là gì. Vậy mà “giữa đỉnh chon von” ấy, khi “chiều
rơi”, có một người làm cái việc “xòe tay đỡ những mất còn”…”Xòe tay ra đỡ mất còn” là cách hành xử, cũng là tâm
thế của một người muốn níu giữ, muốn cứu vớt những gì còn có thể níu giữ, cứu vớt
được trước quy luật khắc nghiệt của thời
gian, tựa như đêm đêm, vầng trăng vẫn chống lại cô đơn bằng ánh sáng của chính
vầng trăng vậy!
Rồi tiếp tục hấp dẫn tôi ở bài thơ thứ hai mang tên
“An nhiên”:
“An
trú trong hiện tại
Quán chiều về tương lai
Vô thường hay vô ngã
Hoa hồng đều sắc gai”
Thông thường, khi diễn đạt ý, người ta thường đi từ diễn
dịch đến quy nạp. Trong “An nhiên”, tác giả làm ngược lại. Sự quy nạp xuất hiện
từ hai câu đầu: An trú trong hiện tại/ Quán chiều về tương lai và sự diễn dịch
xuất hiện ở hai câu cuối: Vô thường hay vô ngã/ Hoa hồng đều sắc gai! “Hoa hồng
đều sắc gai” là bản chất của hiện tượng và cũng có thể là bản chất không thay đổi,
chắc chắn là không của riêng hoa hồng.
Nhân “An
nhiên” và qua “An nhiên”, tôi tin thơ Trương Nam Chi là thơ của một người có tu
tập, một người luôn hướng mình theo tinh thần thiền, ánh sáng thiền. Hãy đọc những
câu thơ dưới đây để hiểu người thơ Trương Nam Chi một cách hệ thống hơn, đầy đủ
hơn.
Đây là những
chi tiết thơ, đơn vị thơ minh chứng cho ý này qua Vô minh ngạo nghễ qua bờ
giác/ Ta bà vây thành quách lâu đài/ Ngũ hành luận tương sinh tương khắc/ Nghiệp
dẫn người đi phía an bài trong “Nghiệp dẫn người đi”, Tóc xanh mắt ướt đen tuyền/
Cánh buồm bát nhã lái thuyền liêu trai trong “Thuyền liêu trai”, Tiếng chuông
xa thức tỉnh mình/ Ấm trà sóng sánh trước bình mình trong/ Màn trời vén bức hư
không/ Mây trôi an lạc ngoài song cửa chờ trong “Thức tỉnh”, Chúng sinh gieo giấc
thiện lành/ Nụ hoa giác ngộ hóa thành đài sen trong “Chữa lành”…
Trương Nam
Chi luôn là người: Thương yêu tận đáy tim mình (“Lời cảm ơn”) trong lòng lúc nào cũng không yên trước đại
dịch Covid với một nỗi lo thường trực: Trái đất này, còn sức trụ nổi không?
(“Thế giới này, cuộc sống thật mong manh”); tình yêu con người, tình yêu quê
hương, tình yêu nguồn cội trong lòng chị lúc nào cũng đầy ắp: Con như nước chảy
về nguồn/ Nhớ thôi là nhớ nỗi cuồn cuộn quê (“Đường về miền Tây”); lúc nào cũng
cảm thấy bước đi vô định, khó lường của cuộc đời để chấp nhận nó, sống với nó: Thăng
trầm nào có nguồn cơn/ Lòng người khó định/ Dốc trơn khó lường (“Tháng mười”)
và chị cũng là người luôn chịu ơn đời sống đến triệt để, hết lòng hơn ai hết:
Đắm chìm mây gió trăm năm
Phố ơi xin tạ một mâm lạy đầy…
(“Hơi thở phố”)
Sau chót. Tên tập
thơ này của nhà thơ Trương thật thơ và cũng thật lạ. Có xuất phát và gợi ý từ một
cặp lục bát thật hay trong “Ai xui ai khiến?”:
Thu vàng dạm ngõ đằng xa
Heo may diện kiến lá đa sân chùa
Hy vọng bài viết ngắn này, ở một chừng mực nào đó, cũng mới chỉ đạt đến sự diện kiến thơ Trương Nam Chi.