Nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận định: “Đọc Đinh Nho Tuấn, ta biết anh đi rất nhiều. Từ “Bến Lam Kiều” tới nước bạn Lào, rồi đến “Mùa xuân Nga”, những miền bạch dương tuyết trắng. Đến đâu anh cũng có thơ. Nhiều người, nhiều việc, nhiều cảnh ta gặp rồi quên. Nhưng anh lại nhớ. Anh chiêm ngưỡng trong cõi nhớ, với góc nhìn riêng, với giọng điệu riêng trong những bài thơ nồng hậu.


 ĐINH NHO TUẤN DÍU DAN VỚI NÚI SÔNG                                                                             

TRẦN ĐĂNG KHOA

 Thông thường, khi tới thăm ai đó, tôi có cái thú vui là cứ thích tò mò ngắm những đồ đạc, vật dụng bày đặt trong nhà. Đối với tôi, đó là những sinh linh thật thà và tốt bụng. Chúng đang sởi lởi kể với tôi về ông chủ của chúng, kể bằng bằng sự im lặng. Nhưng ta lại hiểu được chủ nhà là người thế nào. Trình độ văn hoá và tính cách ra sao. Rồi cả số phận của ông ta nữa. Có lẽ vì thế, mà ở nhiều nước có những ông thày bói quái quỷ, xem tướng người ta, lại không nhìn mặt, không nhìn bàn tay, chỉ tay, mà lại lật cái đế giày lên, xem độ mòn, góc mòn của đế giày, rồi căn cứ vào độ mòn cơ học ấy mà phán vanh vách về ông chủ, chuẩn xác và tinh quái như một con ma xó.

Tôi cũng đang ở trong “căn nhà” của Đinh Nho Tuấn đây. Căn nhà mà ngay cái tên đã là lời “tự thú” của chính ông chủ: DÍU DAN VỚI NÚI SÔNG. Và “đồ đạc vật dụng” của căn nhà bề thế này là những bài thơ dào dạt đôn hậu. Chúng cũng đang lặng lẽ khoe với ta về ông chủ của chúng.

Vậy Đinh Nho Tuấn là ai?

Một người lao động cật lực. Hay nói như nhà thơ Lê Đạt, một “phu chữ” vạm vỡ và cần mẫn.

Điều ấy không có gì mới và cũng không phải phát hiện của tôi, mà của Giáo sư Phong Lê. Trong “Lời giới thiệu” tập thơ EM TÔI của Đinh Nho Tuấn, Giáo sư, nhà phê bình văn học Phong Lê đã cho chúng ta rằng: Tập thơ đầu tay của Đinh Nho Tuấn có tên: EM HÃY CHO ANH VỘI, ấn hành vào quý III năm 2018, gồm 76 bài. Tên sách lấy từ tên một bài thơ tình của một người trai ở lứa U50. Có lẽ do là tuổi …50 nên mới phải vội, vì quỹ thời gian của anh không còn nhiều như ở lứa tuổi 20. Chọn một bài thơ tình cho tên sách, tác giả như muốn níu giữ nét thanh xuân cho tuổi đời mình. EM TÔI là tập thơ thứ hai của tác giả, có trên một trăm bài. Đó là không kể còn mấy chục bài thơ 4 câu và 8 câu, chỉ với khoảng cách sau một năm. Phải nói đó là một lao động thơ đáng nể, không dễ thực hiện ở bất cứ ai, dẫu là nhà thơ chuyên nghiệp. Thế nhưng điều đáng nói ở đây lại không phải ở mật độ thơ, ở số lượng bài mà ở sự mở rộng của chất liệu và cảm hứng thơ.

Tập thơ này là tập thơ thứ ba của Đinh Nho Tuấn. Vậy thơ Tuấn có gì? Anh khác các thi sĩ mà chúng ta yêu mến ở đâu? Cái gì làm nên thơ anh? Và sự đóng góp của anh với nền thơ chung của chúng ta hôm nay là gì? Một đồng nghiệp của tôi, cũng là bạn của Đinh Nho Tuấn đã hỏi tôi như vậy, khi ông biết tôi đang đọc tập thơ còn trong dạng bản thảo của anh. Ông bạn đồng nghiệp hỏi vậy cũng vì yêu chàng thi sĩ của chúng ta thôi. Nhưng tôi nghĩ, cũng không nên đặt ra những vấn đề quá to tát như thế. Đinh Nho Tuấn là một nhà thơ. Bây giờ ai làm thơ chúng ta cũng kính trọng. Thêm một nhà thơ là thêm một sự lương thiện đến với chúng ta trong cõi đời dâu bể đầy bụi bặm và luôn bất an này.

Tôi rất quý Đinh Nho Tuấn. Tôi chỉ biết anh qua những bài thơ ngổn ngang, bề bộn và dạo dạt xúc cảm. Đinh Nho Tuấn là nhà thơ đương đại. Nhà thơ của ngày hôm nay. Hôm nay không phải hôm qua. Đấy là điểm khác biệt giữa Đinh Nho Tuấn với các thi sĩ thế hệ trước.

Tôi chợt nhớ một kỷ niệm nhỏ. Lâu rồi. Dễ đã hơn ba chục năm. Chiều ấy, tôi đến thăm nhà anh bạn thân cùng học phổ thông, lúc ấy đang là Phó Tổng biên tập báo Nông nghiệp VN. Anh rất yêu thơ.  Nhà anh có cả ba ấn phẩm rất có uy tín thời ấy. Đó là báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội và tạp chí Tác Phẩm mới. Nhân lúc rỗi rãi, tôi chọn ba số bất kỳ. Rồi lại chọn tiếp mỗi câu thơ của hai mươi tác giả bất kỳ, ghép lại với nhau thành một bài thơ mới. Tôi không thay đổi một chữ nào, mà thơ mà vẫn liền mạch, liền ý và đôi chỗ còn chuẩn cả vần điệu, nhuần nhuyễn như thơ của một tác giả. Tôi đem đến nhà thơ nổi tiếng Phạm Tiến Duật, lúc bấy giờ đang phụ trách tổ thơ báo Văn nghệ. Anh bảo: “Bài Khoa hay lắm. Anh không ngờ chú viết quá hay. Anh ký ngay và đề nghị in trang nhất”. Một người sành thơ đến như Phạm Tiến Duật, mà vẫn không thể nhận ra được, trong bài thơ “rất hay” ấy chẳng có một chữ nào của tôi, cũng không phải thơ một người, mà của hai mươi thi sĩ ở lứa tuổi khác nhau, thậm chí ngoài đời, có người còn ghét nhau, không thèm nhìn mặt nhau mà thơ lại giống nhau. Giống như những giọt nước. Nói thật thà như nhà thơ Tế Hanh: “Đọc câu thơ đồng chí ngỡ thơ mình”.

Đó là khi đang chiến tranh. Nói như Chế Lan Viên: “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung gương mặt / Nụ cười tiễn đưa con ngàn bà mẹ in nhau”. Một đất nước có chung tâm hồn là cái bên trong, chung gương mặt là vẻ bề ngoài, lại chung đến cả nỗi niềm riêng tư là nụ cười các bà mẹ tiễn đưa con thì thơ có giống nhau cũng là điều dễ hiểu. Bởi khi đó: “Toàn quân một ý chí. Toàn dân một ý chí. Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng có một phát hiện khá thú vị: “5 anh em trên một chiếc xe tăng / Như 5 bông hoa nở cùng một cội / Như 5 ngón tay trên một bàn tay / Đã ra trận là 5 người như một”. Và thực sự, không phải chỉ có “5 anh em trên một chiếc xe tăng”, mà cả dân tộc cùng  trên một chiếc xe tăng. Nhà thơ Phạm Tiến Duật lý giải: “Đấy là nhà có giặc. Có giặc thì muôn người kết lại thành một khối. Bàn tay cũng phải nắm lại làm một quả đấm thép, giáng vào mặt kẻ thù. Còn bây giờ thì hết giặc rồi. Không thể cứ nắm đấm mãi, bàn tay phải mở ra, xòe ra để thành một bông hoa. Bây giờ mỗi thi sĩ chúng ta phải là một cánh hoa trên bông hoa có rất nhiều màu sắc”

Và như thế, Đinh Nho Tuấn đâu phải ngoại lệ. Nói như Phạm Tiến Duật thì anh là một “cánh hoa” trên bông hoa có hàng ngàn cánh ấy. Anh góp phần làm nên sự đa dạng của thơ chúng ta hôm nay bằng giọng điệu “màu sắc” của riêng mình.



Tập thơ mới này là một cuộc DÍU DAN của anh, nhưng không DÍU DAN với một cô nàng trẻ đẹp, kiều diễm nào đó, mà DÍU DAN VỚI NÚI SÔNG kia. Đong đưa với NÚI SÔNG, nên tập thơ đề cập đến nhiều vấn đề lớn của đất nước, của đời sống: “Mẹ Thiên nhiên”, “Tổ quốc và tôi”, “Khi Tổ quốc nguy nan từ biển”, “Những hòn đảo Tổ quốc” nhưng anh vẫn không quên những chuyện nhỏ nhặt của cuộc sống mỗi ngày, như: “Rau khoai lang”, “Bưởi quê, “Giữa trưa hè cha tôi bổ củi”, “Khi tôi ngủ bầy chim vẫn hót”, “Dân thường”, “Cúc họa mi”, “Vườn đêm”...

Đọc Đinh Nho Tuấn, ta biết anh đi rất nhiều. Từ “Bến Lam Kiều” tới nước bạn Lào, rồi đến “Mùa xuân Nga”, những miền bạch dương tuyết trắng. Đến đâu anh cũng có thơ. Nhiều người, nhiều việc, nhiều cảnh ta gặp rồi quên. Nhưng anh lại nhớ. Anh chiêm ngưỡng trong cõi nhớ, với góc nhìn riêng, với giọng điệu riêng trong những bài thơ nồng hậu. Chúng ta rất xúc động khi thấy anh cảm thông, chia sẻ với những người bất hạnh. Cũng đã có nhiều người viết về kiếp mồ côi khi đang tuổi ấu thơ, nhưng đến Đinh Nho Tuấn, anh vẫn có một cách nhìn riêng biệt, không giống ai cả:

Ba tuổi mẹ qua đời, đêm đông con tròn trong vòng tay mẹ

Hơi ấm giờ bay về nơi xa

Ba tuổi, tuổi cào cào châu chấu

Tuổi trăng thanh vuông sân nhỏ, ao nhà

Mồ côi ở lứa tuổi lên ba, nhưng lớn lên rồi, đã trưởng thành rồi mà vẫn mồ côi:

Con đang sống thêm nhiều lần ba tuổi

Cây rơm đầu hồi dạy con biết yêu

Con yêu những người đàn bà có mái tóc nụ cười giống mẹ

Con đi theo dáng hình của họ

Con đi theo ngọn gió

Ngọn gió thơm hương mẹ…

Và rồi:

Con yêu sự dừng lại của thời gian

Của những dấu tích đã thành hơi thở

Giữa bình minh và hoàng hôn giằng xé

Con chưa vượt qua ba tuổi bao giờ

Mẹ!

Nhà thơ Nga nổi tiếng thế giới Evghenhi Evtusenko có một phát hiện khá thú vị: Không có ai tẻ nhạt ở trên đời. Ngay cả những người suốt đời sống lặng lẽ, “Quen với thứ lặng thinh không tô vẽ cho mình”, thì rồi chính vẻ khiêm nhường lặng thinh ấy lại biến anh thành đáng nhớ với xung quanh. Và khi mỗi con người chết đi thì cũng chết theo luôn cả một vũ trụ bí mật, mà trong thế giới lặng thầm đâu tiết lộ cho ai. Đinh Nho Tuấn cũng ca ngợi vẻ đẹp của con người bình dị trong một bài thơ tình có tên: Tôi là tôi cả tình yêu sự chết. Nhưng khác với nhiều nhà thơ thường chọn vẻ đẹp của cô gái làm đối tượng miêu tả, ca ngợi, Đinh Nho Tuấn lại chọn chàng trai. Anh để chàng giới thiệu về mình với người yêu. Lời giới thiệu đầy kiêu hãnh, dù chàng biết mình chẳng có gì là to tát, quan trọng:

Tôi - sinh linh làm đời em huyên náo

Bằng gì ư? Bằng say đắm nát tan

Bằng nỗi ghen, bằng thẳm sâu im lặng

Hoa hồng nhung và cả ánh trăng tàn

Tôi là tôi, cho đời em tìm kiếm

Bảy tỷ con người hay có thể gấp đôi

Xin em cứ lục tung trái đất

Cũng không thể tìm người giống như tôi

Trong bảy tỷ người, không có người thứ hai như chàng. Vậy chàng trai ấy có gì đặc biệt?

Tôi vĩ nhân ư? Ồ, không phải thế

Thường mọn ư? Cũng không phải, và rồi

Tôi là tôi, trên đôi môi em hát

Bài tình ca không lặp đó là tôi

 

Tôi là tôi cả tình yêu, sự chết

Cả ngôn từ, cả môi xiết tay ôm

Cả thất vọng và niềm tin, nước mắt

Không lẫn vào ai, kể cả nỗi buồn

Thông thường, khi làm thơ, các thi sỹ có nghề thường chú tâm xây dựng hình tượng, cấu tứ. Thơ không kể lể, mà chắt lọc. Thơ cốt gợi chứ không nói hết, nói cặn kẽ đến trơ gốc trơ rễ. Câu chữ hết nhưng thơ không hết, bởi nó lại mở ra một cánh cửa vào cõi vô biên. Các cụ bảo “Ý tại ngôn ngoại”, nhà thơ Bằng Việt thì bảo đó là “khoảng cách giữa lời”. Thơ tồn tại ở khoảng cách giữa lời ấy. Bởi thế, thơ ca mới cần bạn tri âm, cần người diễn giải. Và điều đó đã làm nên sự huyền diệu của thơ. Vì thế, có thi sĩ bảo: “Khi đọc thơ, tôi thường luồn bàn tay xuống dưới câu chữ, rồi khoắng xem ở đấy có gan ruột của nhà thơ không? Nếu thấy rỗng tuếch, chỉ có những con chữ xanh xanh đỏ đỏ nổi phèo phèo thì tôi không đọc nữa”. Đấy là thơ cổ điển, thơ kinh điển. Thơ hiện đại không phải thế. Đinh Nho Tuấn không quan tâm đến lĩnh vực này, anh cũng không có ý thức trong việc giữ gìn truyền thống hay cách tân thơ. Anh chỉ viết hồn nhiên theo xúc cảm. Hình như chính đời sống bề bộn đã mượn ngòi bút anh mà ùa ra trang giấy. Đinh Nho Tuấn không làm thơ mà anh bị thơ làm:

Tôi muốn bước xuống, đặt một nụ hôn lên câu ví dặm

Muốn thắp một nén tâm linh nơi câu lục bát ra đời

Nơi Nguyễn Du về nhà Kiều ở ẩn

Câu lục bát vẫn cháy ngun ngún đêm đông

Không ai có thể dắt tôi đi xuyên qua sừng sững bóng cao Hồng Lĩnh

Tôi muốn vốc một tay đầy nước dòng Lam làm máu của mình

Để mỗi khi môi tôi cất lời sẽ làm tươi màu câu ca dao thiếu ngủ

Trời sinh ra đất hay đất sinh ra trời xanh

Mà nắng gió no nê triền đê đến thế

Lửa cháy bập bùng trên lưng người đi cấy

Đất tức tưởi cắn vỡ lưỡi cày, lưỡi cuốc, nghe như tiếng vỡ củ khoai tươi

Thôi em chèo thuyền đi kẻo ngày mai bão táp về rồi

Những dòng sông, những cánh đồng và núi cao như ngồi trên lưng ngựa

Cuộc đời chồm lên phi nước đại lòng vòng

Đất mẹ nhân từ cho ta những dòng sông

Sông lấp hết đau thương bằng phù sa mặn chát

Một đời sông tắm táp cho triệu triệu đời người

Hỡi Miền Trung những dòng sông chưa biết nghỉ ngơi

Tôi gọi tên Đất nước…

Thơ Đinh Nho Tuấn là thế. Bề bộn, ngổn ngang trong xúc cảm tràn trề. Ta có thể gặp trong tập thơ này, nhiều con người, nhiều cảnh sắc ở nhiều vùng đất khác nhau, cả những bến bờ xa lắc nơi đất bạn Lào hay vùng bạch dương tuyết trắng xứ Nga. Nhưng những bài thơ, những câu thơ ấn tượng nhất của Đinh Nho Tuấn vẫn là những bài thơ, những câu thơ anh viết về quê hương, đặc biệt là vùng quê Hà Tĩnh. Một miền đất rất nghèo, đã thế lại có khí hậu khắc nghiệt, mưa bão, hạn hán, lũ lụt liên miên. Một vùng đất, mà nói như nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý: “Hạt mưa bay, ngọn gió cuốn”, nên chẳng còn gì cả. Tài nguyên duy nhất của Hà Tĩnh, chính là Người Hà Tĩnh. Khoáng sản tuyệt vời nhất của Hà Tĩnh cũng là Người Hà Tĩnh. Ta hiểu vì sao mảnh đất khắc nghiệt này lại sinh ra nhiều con người kiệt xuất.

Có người Hà Tĩnh suốt đời bám trụ tại Hà Tĩnh, nhưng tên tuổi, nhân cách và tài năng của họ đã trở nên thân thuộc với bạn đọc cả nước và thế giới. Có người Hà Tĩnh rực sáng ở những miền quê xa. Họ có mặt ở nhiều bến bờ Châu lục. Đấy là những người Hà Tĩnh xa quê, họ mang Hà Tĩnh đi theo và tiếp tục làm rạng danh Hà Tĩnh, biến Hà Tĩnh thành một địa danh đặc biệt. Nói như nhà thơ Trần Nhuận Minh thì đấy là vùng đất ông vô cùng kính ngưỡng. Đến nỗi khi đến Hà Tĩnh, hay chỉ đi qua Hà Tĩnh, không bao giờ ông dám đội mũ. Bởi đấy là quê hương Nguyễn Du và không phải chỉ có Nguyễn Du. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo cũng có một bài thơ rất hay viết về Hà Tĩnh. Ông đặc tả con sông Lam: “Sông bổ đôi Nghệ Tĩnh/ Sông nằm hóa Lục bát Nguyễn Du/ Sông đứng thành Hồng Lĩnh/ Sông đi thành ví dặm trời xanh”. Viết thế kể cũng là tài. Đấy là cái nhìn của người tài, đứng xa ngắm sông Lam. Còn Đinh Nho Tuấn là người con của Hà Tĩnh. Anh có cái nhìn gần của người trong cuộc: “Nghe cuồng phong trên quê hương đất mẹ/ Làng xóm chìm trong dòng nước băng băng”. Và rồi: “Những con sông không uống dùm hết nước/ Thương sông Lam chết đuối cả trong vườn”.

Viết về những trận đại hồng thủy của Hà Tĩnh, làng xóm, nhà cửa chìm trong nước: “Thương sông Lam chết đuối cả trong vườn”, là một câu thơ thật hay.

Đinh Nho Tuấn có những câu thơ ấn tượng như vậy. Tôi có thể tiếp tục dẫn ra nhiều câu thơ như thế. Nhưng rồi tôi lại thôi. Tôi sợ trong cuộc sống tất bật vội vàng này, quý vị sẽ chỉ đọc những câu thơ tôi trích mà bỏ qua rất nhiều những bài thơ, câu thơ cũng rất đáng đọc của anh. Vì thế, tôi xin dừng lại ở đây, để bạn đọc cùng anh DÍU DAN VỚI NÚI SÔNG và tự khám phá những vẻ đẹp rải suốt dọc đường. Hy vọng những vẻ đẹp ấy sẽ được bạn đọc yêu thích.