Hoàng Cầm xót thương cho thân phận của người phụ nữ chị hai quan họ, nguyên mẫu của mẹ nhà thơ suốt mười năm trời bị chồng xa lánh hắt hủi chỉ vì mê hát, xót thương cho đôi trai gái “luyện giọng từ năm cùng chín tuổi” yêu nhau mà “biết bao giờ nên vợ nên chồng”


ANH TRẨY CHÙA HƯƠNG PHÍA XÓT THƯƠNG

(Viết trong ngày Thơ Nguyên Tiêu & hậu lễ ra mắt “Về Kinh Bắc”)

MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN

“Anh trẩy chùa Hương phía xót thương”, đó là câu thơ thường chợt hiện trong tôi giữa những ngày rong ruổi khắp Kinh Bắc làm phim về Học Vấn vùng đất này - theo yêu cầu của Sở Giáo dục Hà Bắc, sau đó là làm phim chân dung về thi sĩ Hoàng Cầm - theo nhu cầu của đạo diễn Tự Huy và bản thân tôi… Lần đi với anh Hoàng Kỳ - con trưởng của ông, tôi có hỏi anh về câu thơ trên, anh liền đọc thêm câu: “Em trẩy chùa Hương phía giải oan” của cha mình, rồi bảo: “Em tinh đấy! Theo anh, đó là câu thơ nói được con người cụ nhà anh rõ nhất…”

Tôi cứ ngẫm nghĩ về câu nói trên của anh Hoàng Kỳ, cùng cái cảm xúc mới mẻ gợi trong tôi như một góc nhìn riêng về Thơ Hoàng Cầm còn đeo đẳng cho tới hôm nay… Toàn bộ thơ, truyện thơ, kịch, văn xuôi Hoàng Cầm, tôi nghĩ đã được viết ra từ “phía xót thương” này; những tìm tòi về chữ nghĩa, thi tứ, hình tượng thơ, các thi pháp ẩn ngữ, mỹ cảm tâm linh hóa, v.v, của ông chắc chắn đều có cái nền của “phía xót thương”…

Xót thương cho thân phận của người phụ nữ chị hai quan họ, nguyên mẫu của mẹ nhà thơ suốt mười năm trời bị chồng xa lánh hắt hủi chỉ vì mê hát (Tôi người làng quan họ); xót thương cho đôi trai gái “luyện giọng từ năm cùng chín tuổi” yêu nhau mà “biết bao giờ nên vợ nên chồng”, để rồi “Em đã chết mòn sau cánh cổng/ Tình chúng ta vỡ như bong bóng” (Khi mùa xuân trở về); xót thương cho cô vợ anh bộ đội Việt Minh sống trong vùng địch hậu - người mẹ trẻ “nước mắt nhiều hơn sữa/ Ngực lép con nhay đã rã rời” (Tâm sự đêm giao thừa); xót thương cho đứa bé “lủi thủi tìm miếng ăn” bởi “bố cường hào nợ máu”, mẹ bỏ con vào Nam, lại xót thương cho chị bần nông cốt cán “bị đình chỉ công tác” chỉ vì “Nhìn đứa trẻ mồ côi/ Cố tìm vết thù địch/ Chỉ thấy một con người” (Em bé lên sáu tuổi); xót thương cho sông Lô mà thi sĩ hóa thân thành “em là em bé sông Lô”, cho sông Đuống “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” trong nỗi “nhớ tiếc, sao xót xa như rụng bàn tay”…

Có lần, tôi nói với ông Hoàng Cầm về ý đồ xây dựng một phim điện ảnh về số phận của các liền anh liền chị quan họ quê hương ông, mắt ông sáng lên và hào hứng đọc cho tôi nghe mấy bài liền từ bản thảo “Tiếng hát quan họ”. Cặp mắt ông như rớm lệ trước những số phận quan họ ở “Chân trời tua tủa mảnh chai”, rồi nhẹ nhàng nói với tôi: “Cháu ạ, cội nguồn của tiếng hát quan họ là Tình thương đấy…” Mấy lần được nghe ông nói chuyện ở các trường học ở Thuận Thành, tôi hiểu: cái thông điệp chủ yếu ông gửi gắm tới thầy và trò qua thơ – văn chỉ là nỗi xót thương, sự đồng cảm, tình yêu thương giữa con người với con người. Tập bản thảo có tranh vẽ của tác giả mà nhà thơ Hoàng Cầm đã yêu quý, tin cậy tặng cho tôi, cũng nồng ấm sự gửi gắm này…



Trước đêm ra mắt “Về Kinh Bắc, 100 năm Hoàng Cầm”, tôi có đọc lại bài viết của nhà thơ Hoàng Hưng nói về Lễ kỷ niệm này, có đoạn: “Con người Hoàng Cầm cũng là một bí mật cần được khám phá của sự dung hợp giữa tính duy cảm và lí trí, tính đại chúng và tính tinh hoa, tính truyền thống và tính sáng tạo, con người chiến sĩ và con người nghệ sĩ… Đó cũng là một bí mật của thành công nghệ thuật trong thời kì bước vào nghệ thuật hiện đại của Việt Nam”.

Và tôi nghĩ thêm, thực ra chỉ là những điều mà nhà thơ có số phận long đong gắn với ông Hoàng Cầm và tập “Về Kinh Bắc” chưa tiện nói:

Hơn ai hết, Thơ ca Hoàng Cầm là sự trả nợ/ nói hộ/ nói thay/ nói tiếp cho một thế hệ thi sĩ Việt sống trong thời đại sắt máu muốn nói lên tiếng nói của Tự do, của Bản thể người, với bản chất của khát vọng Thi ca & sứ mệnh Thi ca là mong mỏi cho Con người được Người hơn; dù có phải đối mặt với bao đe dọa về tính mệnh lẫn sinh mệnh Thơ ca, dù có lúc phải hạ mình nhẫn nhục, phải vờ hèn hạ để đợi dịp bật ra sự thật của Tình yêu và lòng Căm giận tự đáy lòng mình… Tình yêu và Lòng căm giận đó được viết ra bằng “ngôn ngữ của vết thương” (Chu Văn Sơn), có sự bảo đảm bởi một trái tim luôn hướng về “phía xót thương”…