Thái Bá Lợi viết văn như nghĩ, hay nói đúng hơn, viết bằng nhau với các ý tưởng đã nghĩ đang nghĩ liên tục nghĩ, nghĩ cả khi đang viết, và vì vậy văn ông lúc nào cũng trau chuốt, trau chuốt nhưng không bóng bẩy hào nhoáng mà cực kỳ kỹ lưỡng


THÁI BÁ LỢI KHÔNG NHANH MÀ CŨNG CHẢ CHẬM

TRUNG TRUNG ĐỈNH

Nếu bạn muốn tìm hiểu ngọn ngành về nhà văn Thái Bá Lợi, thì tôi khuyên bạn, hãy tìm đọc những truyện ngắn đầu tiên của ông: "Lòng cha", "Vùng chân Hòn Tàu", "Đội hành quyết" rồi đến truyện vừa " ưa bạn lên tít trên đỉnh cao mà không thấy mệt, đấy là đỉnh cao "Hai người trở lại trung đoàn". Một đỉnh cao chói ngời, đỏ thắm của truyện ngắn Việt Nam thời hậu chiến. Trước năm 1975, trước "Hai người trở lại trung đoàn" gần như tên Thái Bá Lợi mới chỉ được giới viết văn khu vực miền Trung Thung lũng thử thách", lần lần, từng nấc một, như bạn đang leo thang, mỗi truyện ngắn của ông là một nấc thang khỏe khoắn, vững chắc, chỉn chu, Trung Bộ và Tây Nguyên biết đến. Nhưng sau "Hai người trở lại trung đoàn" thì những người viết văn cả nước đều ngả mũ nể phục đón chào nhà văn Thái Bá Lợi. Truyện ngắn này, nếu tôi nhớ không lầm, sau khi được in ra, ngay lập tức có hai luồng dư luận đối nghịch nhau. Một bên khen, khen ngút trời, cho rằng Thái Bá Lợi xứng đáng là nhà văn "Trung úy" (theo cách nói đầy mến phục của giới viết văn về chiến tranh của Liên Xô cũ).

Ở ta, lúc ấy, các nhà văn miền Bắc, lứa chúng tôi vừa bước ra khỏi cuộc chiến đều đánh giá Thái Bá Lợi là người có cái nhìn mới về người lính và về xã hội. Anh dũng cảm và chính xác nhìn nhận về mình, về thế hệ mình, một thế hệ vừa oai hùng lừng lẫy từ trong cuộc chiến thắng với lấp lánh huân huy chương chiến công ngời ngời và đồng thời bắt đầu bước phải những bước va vấp tư tưởng tưởng nhỏ nhưng không nhỏ, tưởng lớn nhưng không lớn bao nhiêu, khiến sự nhìn nhận cách ứng xử mà cái lối tiếp cận mới chưa đủ mới, chưa đủ mạnh, chưa đủ thuyết phục trong khi thói quen cũ còn khá phổ biến, chưa được cái cách tiếp cận mới mở đường cho thông thoáng. Truyện ngắn “Hai người trở lại Trung Đoàn” tạo nên một không gian văn hóa mới với cách nhìn nhận về chiến thắng không phải chỉ có một vế!

Tác giả dám nhìn thẳng vào sự thật như một lời cảnh tỉnh về sự tha hóa của con người mà trong đó có cả những người lính, những người tưởng như đã thành mặc định là chỉ thấy hay, thấy đúng! Còn một bên phản đối kịch liệt, cho rằng “Hai người trở lại Trung Đoàn” đã chệch đường ray, đây là một cách nhìn sai lệch về người lính cách mạng. Họ cho rằng, những con người hiển hách dũng cảm trong chiến tranh như vậy, sau chiến tranh, sẽ càng hiển hách hơn, không bao giờ có chuyện sa ngã, mất "quan điểm lập trường"…

Vấn đề sau đó là, sự thật ngày càng chứng tỏ, cách nhìn nhận cảnh tỉnh của Thái Bá Lợi không hề lệch lạc. Những vấn đề hậu chiến của người lính, của hậu phương người lính, của cả một loạt những nhức nhối nóng bỏng mới nảy sinh trong lòng xã hội thời bình sau chiến tranh.

Tôi có cảm giác lúc nào Thái Bá Lợi cũng đang viết. Mà đúng thật. Ông ta ngồi vào bàn, thực ra chỉ là để chép lại câu chuyện mà ông ta đã viết chín nẫu trong đầu. Thái Bá Lợi viết văn như nghĩ, hay nói đúng hơn, viết bằng nhau với các ý tưởng đã nghĩ đang nghĩ liên tục nghĩ, nghĩ cả khi đang viết, và vì vậy văn ông lúc nào cũng trau chuốt, trau chuốt nhưng không bóng bẩy hào nhoáng mà cực kỳ kỹ lưỡng. Giữa lúc chúng ta còn, đang chưa đủ bình tĩnh nhìn nhận nhân tình thế thái thời hiện tại, thì nhà văn Thái Bá Lợi đã lại một lần nữa tiếp cận vào bên trong những nhức nhối lớn hơn thường ngày của đời sống xã hội. Ông như một nhà tiên tri bị cuốn sâu vào tâm điểm của những mâu thuẫn nội tại nơi con người Việt Nam những năm thương khó, phải nói là thương khó tội tình.

Tôi nghĩ rằng, nếu bạn mới viết văn, có máu mê viết văn, thì tốt nhất bạn nên tránh xa Thái Bá Lợi. Không nên để ý, không nên xem ông ta thao tác nghề nghiệp này. Bởi vì, tôi nói thật, tôi đã được lén lút xem ông bạn của tôi ngồi một mình với trang giấy trắng. Nói như thế thì sang cho ông quá. Thực ra đấy là lúc ông ta được tự do nhất, đuợc coi trời bằng vung, "anh hùng" nhất khoảnh nhất. Tức là mọi sự việc xung quanh, mọi người xung quanh, tất thảy đều vô nghĩa. Mắt Thái Bá Lợi vốn đã lệch lúc này dại đi, nước mũi, nước dãi tự nó "bươn chải", không nơi cư trú, mặc dù trước đó, trước khi viết văn, bao giờ Thái Bá Lợi cũng có ý thức long trọng lau chùi bàn ghế tinh tươm. Sửa sang giá sách gọn ghẽ, giường chiếu và các vật dụng quanh ông thật yên lặng để chúng coi ông đang cắm cúi cặm cụi với mình. Câu chuyện và ý tưởng ông ta đã thuộc làu làu, vậy mà, tóm lại, chúng ta không nên nhìn thấy cảnh này. Nó vừa bi ai hùng tráng lại cũng vừa rất chi là bê tha. Đọc văn thì sướng thiệt chứ xem các nhà văn làm việt thì thật oải!

*

Thời bao cấp khó khăn, tôi với Thái Bá Lợi ra học khóa I của Trường Viết văn Nguyễn Du. Lợi thì đã nổi tiếng "hoành tráng". Tôi mới tập tọe viết được vài ba truyện ngắn, chưa ai biết gì. Nhóm bạn chơi của tôi hồi ấy được anh em gọi là "cánh rừng phía Tây" gồm có tôi, Thái Bá Lợi, Nguyễn Trí Huân và Phạm Hoa.

Nhóm chúng tôi chủ trương sống thoáng, tự do, "gió chiều nào che chiều đó", nếu không che được thì "cuốn theo chiều gió" luôn, lấy vui làm gốc. Nguyễn Trí Huân là người nghiêm chỉnh nhất, không rượu chè, không trà lá, chỉ thuốc lào. Thú vui của y dồn hết vào cái nõ điếu thuốc lào. Chúng tôi nhất trí.

Phạm Hoa gốc gác lái xe Trường Sơn, đầu bù, tóc rối, viết văn rất hay vì có nhiều vốn sống hay về lính lái xe Trường Sơn, cá tính có vẻ lầm lì nhưng hóm, máu giang hồ tài tử. Năm ấy Phạm Hoa in truyện ngắn liền tù tì trên báo Văn nghệ. Hình như năm cái. Một con số mơ ước cho những người viết trẻ.

Tôi thì hay rượu, ham chơi, gần với Thái Bá Lợi hơn. Nhưng anh Lợi chín chắn hiền hòa, không nôn nóng như tôi. Kết với nhau như thế nhưng hồn ai nấy giữ. Phạm Hoa với Nguyễn Trí Huân hay ngả sang chơi với nhóm Trần Nhương, Dương Duy Ngữ. Mỗi khi nghỉ hè, nghỉ phép, chúng tôi nhập nhóm "đi thực tế vùng miền" kết hợp đi buôn "đánh quả", chỉ mong lấy lại tiền vé tàu xe.

Hồi ấy xà phòng rất hiếm. Thái Bá Lợi có anh bạn tên là bác Châu (già) ở Đà Nẵng. Anh Châu già có một "xưởng" nhỏ sản xuất xà phòng, loại xà phòng trắng nhởn, rất nhớt, hôi, nhưng giặt quần áo thấy rất hiệu quả. Tôi và Thái Bá Lợi "đặt vấn đề" buôn chuyến ra Bắc và ngay lập tức được anh Châu nhiệt liệt hưởng ứng. Ba anh em chúng tôi làm ba ba lô kễnh, lên tàu.

Trước hết là đến Đại học Bách Khoa, theo tính toán của chúng tôi, sinh viên ta nghèo, dùng xà phòng này quá hợp. Bỏ mối chào hàng thì có vẻ ai ai cũng tấm tắc, nhận mua, thậm chí có quán nước bốc lên bảo các anh có nhiều thì tôi sẵn sàng bao tiêu, hoặc ta bàn chương trình làm xà phòng tại chỗ, bán sẽ lời hơn.

Về, tôi và Thái Bá Lợi khấp khởi tổ chức liên hoan nhẹ với món truyền thống: cá mè hồ công viên mua của mấy chú nhóc câu trộm nấu dưa chua cùng mấy xị quốc lủi, hẹn nhau sang tuần thu tiền vốn, chưa lấy lãi vội. Tuần sau đi thu hồi, đa số người ta trả lại, không những không mua mà còn chê. Khó khăn thì khó khăn cả nước, vậy mà mấy vị buôn lại còn bày đặt chê hàng Đà Nẵng "nhà quê", không hợp với người Hà Nội, rất khó chịu. Thôi thì làm ăn buôn bán có duyên, có nghiệp, đâu phải dễ ăn. Cánh tôi biết thân biết phận rút quân, thua thì nói là thua cho nó lành!

*

Nhà văn Thái Bá Lợi là tay ham chơi, thích ngao du, rủ đi đâu chả mấy khi từ chối. Hồi ở trên rừng Trà My ông đã bộc lộ tính cách hóm hỉnh của mình. Một lần cơ quan có hội nghị liên hoan, tập trung nhiều người về bếp ăn tập thể. Đấy là những ngày hiếm hoi vui vẻ. Một hôm, vòi nước được anh em bắc bằng ống nứa từ tít trên núi cao rất công phu đưa nước sạch về bếp tự dưng bị tắc.

Mọi người đang hoang mang lo lắng, nhất là mấy cô chị nuôi, thì Thái Bá Lợi kéo theo cậu công vụ đi ngược núi dọc đường ống lên dốc "kiểm tra". Đến đoạn trên dốc cao, đường ống bị một túm lá cây chặn tắc, nhấc túm lá ra, đường ống thông, dưới bếp mọi người hoan hỉ.

Thái Bá Lợi được khen là "sáng kiến". Lợi ta hỉ hả bảo mọi người rằng, không ngờ chỉ mấy cái lá cây có thể làm tắc được cả một dòng nước. Bây giờ nhấc túm lá bỏ đi, được mọi người khen sáng kiến, giỏi. Thế mới biết muốn "lập thành tích", viết được một "cái gương" thì dễ nhỉ! Ở cơ quan văn nghệ có hẳn một "tổ gương", đấy là một tổ những nhà văn được phân công chuyên đi thực tế xuống đơn vị, chỉ để sưu tầm gương người tốt, việc tốt, về nhà, viết lên, biểu dương quân dân là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ rồi.

Nhưng Thái Bá Lợi thì luôn luôn được ưu tiên cùng nhóm đi vùng sâu, đi phía trước. Câu chuyện các nhà văn đi thực tế ở khu V cũng nhiều. Thái Bá Lợi cũng như Nguyễn Trí Huân, Vũ Thị Hồng (Bắc Hà) Nguyễn Hồng, Thanh Quế, Bùi Minh Quốc, Cao Duy Thảo, Ngô Thế Oanh, tất cả khi ấy các anh đều trẻ trung.

Nguyễn Hồng là một cây viết trẻ, nhiều hứa hẹn, bị hy sinh trong một lần về vùng sâu. Trước đó các nhà văn Nguyễn Mỹ, Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong, Hà Xuân Phong có thể nói các anh chị đều là những tấm gương lớn cho anh em sau này. Họ đều là những anh hùng.

*

Có hồi Thái Bá Lợi phải bươn chải một mình nuôi hai đứa con ăn học, vì bà xã của ông vốn là một thành viên tích cực của phong trào sinh viên nội thành, sau giải phóng, chả hiểu làm ăn thế nào mà lâm vòng lao lý. Ông vốn không phải loại người tháo vát, chưa bao giờ biết làm ăn (cái vụ làm ăn to nhất có lẽ là vụ buôn xà phòng thời bao cấp với tôi!).

Nhưng không có con đường nào khác, ông lầm lũi vượt qua tất cả những trớ trêu, những điều tiếng, để trụ lại với đời, với nghề. Có lẽ đây là khúc bi ai nhất trong những khúc đời trước đó mà nhà văn Thái Bá Lợi phải chịu đựng. Hóa ra tạo hóa cũng vẫn không để ai mất hết. Hai đứa con Thái Bá Lợi như hai thiên thần, chúng lớn lên cùng cha, học giỏi, ngoan, hiền, bởi quanh chúng còn có bà con cô bác, anh chị em bè bạn của ba mẹ.

Thái Bá Lợi vẫn viết. Viết cả khi đi theo các vị sư vào ở hẳn trong chùa. Viết cả khi tưởng như trước mắt chỉ có bóng đêm tăm tối. Đi theo nhà Phật, hướng theo triết lý Phật giáo, tu tập không phải là con đường, không phải là lối thoát, mà đó là duyên mệnh. Thái Bá Lợi lao động sáng tạo như là một định mệnh, như là một nhu cầu tự thân, không hề nhằm vào bất cứ giải thưởng hay có ý nhằm vào cuộc đua chen nào.

Ông viết văn cũng như uống rượu, không cố gắng, không phấn đấu, hình như cơ địa ông nó cho phép ông được thế. Hình như bản mệnh ông phải thế. Thái Bá Lợi là người không nhanh không chậm, không vừa phải. Ông là người lúc cần nhanh thì nhanh, khi cần chậm thì chậm. Chuyện hóm hạng nhất mà chuyện nhạt cũng đôi khi đoạt giải nhát nhì.

Thái Bá Lợi có đức tính chiều bạn. Ngồi với bạn thâu đêm suốt sáng mặt vẫn tỉnh bơ. Có lần tôi và anh ngồi tiếp Nguyễn Trọng Tạo từ Huế ra, Cả đêm hết truyện hồi trong rừng, hồi ra đảo đến truyện làm báo. Ba anh em bàn khi nào được làm báo tự do sẽ lập tờ lấy tên là “TIN THÌ TIN KHÔNG TIN THÌ THÔI” rất sôi nổi. Thái Bá Lợi bảo cho Nguyễn Trọng Tạo làm đì-zai, sửa bông. Ông bảo Tạo ai nào nhiều tài thì phải làm nhiều chuyện đừng than! Ít thấy ông kêu ca, phàn nàn về người này người khác. Càng ít thấy ông bốc đồng thái quá. Khen ra khen, chê ra chê, không chung chung nước đôi lấy lòng. Khi bị những kẻ xấu ganh tị, Thái Bá Lợi đặc biệt cảm thông, bỏ qua như không. Thế sự thăng trầm, tình người thay đổi, có người hôm qua là bạn, hôm nay vì đố kỵ mà tự chuyển thành đối thủ. Khôn khôn lường lường, khôn lường mãi âu rồi đâu cũng vào đó vậy. Hồi viết tiểu thuyết “Bán đảo” tôi biết ông đã phải trải nghiệm nhiều cuộc kinh hoàng và tất nhiên, ông phải có sức chịu đựng quá đỗi mà sự thật cùng nỗi đau mất mát của nhân dân, của dân tộc bị những lỗi lầm của chính mình trừng phạt mình.

Cuốn tiểu thuyết mỏng như bị ép chặt bởi nỗi đau mất mát của những cuộc vượt biên, bán bãi. Tiểu thuyết bán đảo, một bầu không khí u ám, tăm tối, tội tình bao trùm lấy một nhóm cư dân không biết mần răng bây chừ! Mần răng bây chừ! Nhà văn cũng không biết mần răng bây chừ, khi ông nhiều lần phải chứng kiến cảnh tan đàn sẻ nghé trước sóng biển gào xé! Câu hỏi cứ lặp đi lặp lại rằng, răng mà họ bỏ đây họ đi. Đi vượt biên có nghĩa là đi vào cõi chết. Hú họa lắm mới sống được. Nhưng sao người ta cứ đi, cứ đi, cứ chết, cứ chết. Chết mất tăm mất tích cho cá biển, cho sóng biển. Mà sao họ vẫn cứ đi? Nhà văn à, nhà văn ơi, răng chừ đây nhà văn? Răng chừ!

Ai đã sống những năm tháng ấy nhỉ?

Chúng tôi.

Nhưng lúc ấy, quả thực, cánh tôi, ít nhất là tôi và Thái Bá Lợi, đều chỉ biết cắm mặt trước những câu hỏi không có câu trả lời. Cắm mặt vào lòng mình không còn giận hay thương nữa. Đó là nỗi đau đớn mịt mù xáo trộn trắng đen, bất kể đúng sai của mình của ai của nẫu! (tôi phải dùng từ “nẫu” ở cái văn cảnh lúc này mới thật với hoàn cảnh của chúng tôi hơn!)

Tôi nhớ hồi ấy Thái Bá Lợi mặt méo xệch mỗi lần đi đâu đó về, nhậu thâu đêm suốt sáng với dân bến bãi, rồi chúi mặt ngồi vô bàn, hết ngày này sang đêm khác, quần quật, lặng thầm. Sức uống của Thái Bá Lợi luôn luôn được các tay thợ nhậu kỳ cựu của miền biển Sơn Trà sánh vai cùng. Nhậu bất kỳ lúc nào. Nhậu không phải để quên đời, chán đời, mà là để lấy sức cho đời. Chúng tôi có tuổi trẻ và chúng tôi có ham muốn. Với bạn văn thì Thái Bá Lợi lại có thói tật hay lặp đi lặp lại câu chuyện mà ông nghe được rồi ông nghiền ngẫm. Ông nghiền ngẫm và ông kể lại cho bạn nghe hay cho chính ông nghe đến khi “ngấu” thì mới viết.. Viết và viết.

*

Trong đời mỗi người chúng ta đều có một vài địa chỉ ghi dấu ấn quan trọng, lại cũng có vài người cụ thể, như là số phận, như là định mệnh, gắn bó với ta, tạo nên sức sống, niềm vui và cả nỗi buồn của ta. Với tôi, đó là các anh Nguyễn Chí Trung, Nguyên Ngọc, Phan Tứ, Thu Bồn, Thái Bá Lợi, Thanh Thảo, Ngô Thế Oanh, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Khắc Phục, Trần Vũ Mai, Nguyễn Trí Huân… Họ vừa là những người anh đồng thời là những người bạn, người thầy đầu tiên khi tôi chân ướt chân ráo bước vào cổng làng văn. Anh Thái Bá Lợi là một trong số người viết văn xuôi của trại viết khi ấy mà tôi đã đọc khá nhiều và ngưỡng mộ. Và quý hóa hơn, ấy là việc anh Lợi cũng đã từng đọc, từng cổ vũ, từng “lăng xê” cái truyện ngắn đầu tiên của tôi được in trên Văn nghệ Quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, hồi còn ở trên rừng.

Ngày mới được in truyện ngắn đầu tiên trên tạp chí, có lẽ, tôi là người sung sướng nhất trần gian. Bạn hãy tưởng tượng, một thằng lính, đang ở đơn vị chiến đấu mãi tít trong cánh rừng già, một huyện đội của tỉnh Gia Lai, một chú lính quèn vô danh tiểu tốt bỗng dưng nhận được tờ tạp chí mà mình hằng yêu mến, có cái truyện ngắn của mình được in, trang trọng, tên mình được đứng ngang hàng với các tên tuổi lẫy lừng như Dương Hương Ly, như Thái Bá Lợi, như Nguyễn Thị Bắc Hà (Vũ Thị Hồng) hỏi không sung sướng sao được. Tôi chia vui với các bạn tôi ở đơn vị bằng một cuộc đi săn. (Tôi khi ấy là một trong ba bốn tay súng săn bắn khá của đơn vị). Đêm ấy, lạy trời phù hộ, tôi hạ được một chú nai chà. Cả nhóm lính cánh Bắc đường 19 của chúng tôi được bữa liên hoan đã đời cùng với dân làng Đê Chơ Rang.

 Câu chuyện mà tôi viết là câu chuyện tả cảnh nhóm lính chúng tôi cùng nhóm du kích làng Đê Chơ Rang phục kích đánh xe Mỹ trên đường giao thông. Những trận đánh nhỏ lẻ thường xuyên diễn ra, nhưng câu chuyện tôi viết khá hoành tráng, đặc biệt có chi tiết phục địch từ trên ngọn cây, bắn B40 chỉa xuống đường khiến địch bị quá bất ngờ. Trận ấy ta thắng rất to, ngoài sức tưởng tượng của anh em. Thực ra chi tiết này, trước khi đi phục, có một ý kiến nêu lên, khi đi đánh, chúng tôi có leo lên cây, nhưng tất cả đều tụt xuống vì thấy ngồi trên cây trống lưng quá! Tóm lại không có trận đánh ấy! Tóm lại là tôi bịa. Tóm lại là anh em chúng tôi cũng thấy không có vấn đề gì. Được in là sướng rồi. Nhưng sau khi cái truyện được in chừng hai tháng thì có một đồng chí trợ lý tuyên huấn của tỉnh đội về, yêu cầu tôi “giải trình”. Nếu đây là trận đánh thật thì đơn vị phải có báo cáo chi tiết để cấp trên tặng thưởng huân, huy chương cho anh em. Còn nếu không có thật mà dựng truyện, thì tôi phải “hoàn toàn chịu trách nhiệm”.

Ôi, nghe câu “đồng chí phải hoàn toàn chịu trách nhiệm”, đối với một thằng lính bét dem như tôi, hỏi có hoảng không? Câu chuyện nhanh chóng “chìm xuống” không thấy ai nhắc một câu vì đồng chí trợ lý tuyên huấn ấy, sau chuyến công tác huyện đội chúng tôi bị hy sinh dọc đường về, trong một trận địch càn. Sau này, khi đã về dự trại viết Khu V chỗ anh Thái Bá Lợi công tác, tôi kể lại cho anh nghe, Thái Bá Lợi bảo, không phải lỗi ở cái truyện, cũng không phải lỗi ở người viết và càng không phải lỗi ở anh trợ lý tuyên huấn. Lỗi ở cách suy diễn thế này thế kia của những người ngồi một chỗ nắm quyền hành chỉ biết phán mà không biết nghe những ý kiến phản hồi của anh em!

*

Tôi là thằng đàn em của Thái Bá Lợi nhiều năm nay. Kể chuyện ông viết “Họ cùng thời với những ai” hay sau này cả một loạt tiểu thuyết mới như “Trùng tu”, “Khê Ma Ma” đến “Minh sư” tôi đều có thể kể cả ngày, có điều, kể thế mãi phỏng có ai coi đó là gì?

Hồi ở trên rừng Trà My, Thái Bá Lợi luôn được ưu tiên cùng nhóm đi vùng sâu, đi phía trước. Câu chuyện các nhà văn đi thực tế ở khu V nhiều lắm. Thái Bá Lợi cũng như Nguyễn Trí Huân, Vũ Thị Hồng (Bắc Hà) Nguyễn Hồng, Thanh Quế, Bùi Minh Quốc, Cao Duy Thảo, Ngô Thế Oanh, tất cả khi ấy các anh đều trẻ trung. Nguyễn Hồng là một cây viết rất trẻ, rất nhiều hứa hẹn, bị hy sinh trong một lần về vùng sâu. Trước đó các nhà văn Nguyễn Mỹ, Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong, Hà Xuân Phong, có thể nói các anh chị đều là những tấm gương lớn cho anh em sau này. Họ đều là những anh hùng.

Có hồi, hòa bình được vài ba năm, hồi kinh tế còn bí bách. Thái Bá Lợi phải bươn chải một mình nuôi hai đứa con ăn học, vì bà xã của ông, vốn là một thành viên tích cực của phong trào sinh viên nội thành, sau giải phóng chả hiểu làm ăn thế nào mà lâm vòng lao lý. Thái Bá Lợi vốn không phải loại người tháo vát. Chưa bao giờ biết làm ăn xuôi ngược. (Cái vụ làm ăn to nhất có lẽ là vụ buôn xà phòng thời bao cấp với tôi!”). Nhưng không có con đường nào khác, anh lầm lũi vượt qua tất cả những trớ trêu, những điều tiếng, những lời thị phi, để trụ lại với đời, với nghề. Có lẽ đây là khúc bi ai nhất trong những khúc đời trước đó mà nhà văn Thái Bá Lợi phải chịu đựng. Hóa ra tạo hóa cũng vẫn không để ai mất hết.

Hai đứa con Thái Bá Lợi như hai thiên thần, chúng lớn lên cùng cha, học giỏi, ngoan hiền, bởi quanh chúng còn có bà con cô bác, anh chị em bè bạn của ba mẹ. Thái Bá Lợi vẫn viết, viết cả khi đi theo các vị sư vào hẳn trong chùa. Viết cả khi tưởng như trước mắt chỉ có bóng đêm tăm tối. Đi theo nhà Phật, hướng theo triết lý Phật giáo, tu tập không phải là con đường, không phải là lối thoát, mà đó là duyên mệnh.

Thái Bá Lợi lao động sáng tạo như là một định mệnh, như là một nhu cầu tự thân không hề nhằm vào bất cứ giải thưởng hay có ý đua bon chen nào. Ông viết văn cũng như uống rượu, không cố gắng, không phấn đấu, hình như cơ địa ông nó cho phép ông được thế. Hình như bản mệnh ông phải thế. Thỉnh thoảng có bốc phét, có ba hoa, nhưng nói thật, cái bốc phét, cái ba hoa của Thái Bá Lợi rất vụng, nó lộ hàng ngay đầu nước. Ông mê Hê-minh-uê, coi Hê-minh-uê là cứu cánh, là bậc tiên chỉ. Thái Bá Lợi là người không nhanh không chậm, không vừa phải. Ông là người lúc cần nhanh thì nhanh, khi cần chậm thì chậm. Chuyện hóm hạng nhất mà chuyện nhạt cũng đôi khi. Ngồi với bạn thâu đêm suốt sáng, mặt vẫn tỉnh bơ. Ít thấy ông kêu ca, phàn nàn về người này người khác. Càng ít thấy ông bốc đồng thái quá. Khen ra khen, chê ra chê, không chung chung nước đôi lấy lòng.

Khi bị những kẻ xấu ganh tị, Thái Bá Lợi đặc biệt cảm thông, bỏ qua, ví như câu chuyện mới rồi, khi ông được Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật, ông có đôi lời phát biểu cảm ơn này nọ, không thỏa ý thích đôi người, họ chỉ lấy mấy đồng bạc làm trọng, tưởng ai cũng nghĩ như mình, làm ra vẻ cao ngạo, nên mới ra sức bôi bẩn hàm hồ. Thế sự thăng trầm, tình người thay đổi, có người hôm qua là bạn, hôm nay vì đố kỵ mà tự chuyển thành đối thủ. Khôn khôn lường lường, khôn lường mãi âu cũng vào đó vậy.

Học xong trường viết văn Nguyễn Du, hôm tiễn Thái Bá Lợi về Nam, tôi rủ anh Thái Bá Vân và anh Đào Hùng ra ga trước giờ tầu chạy. Mấy anh em vào cái quán rượu quen của tôi. Vừa ngồi yên vị, anh Thái Bá Vân ngọ nguậy thế nào đó, va vào cánh tay cô gái chủ quán đang đưa chai rượu tới, chai rượu đổ ra lênh láng. Cô gái phản xạ tự nhiên quay ngoắt lại, giật cái chai trên tay anh Vân vừa nhặt lên. “Địt mẹ lão già, đồ vô văn hóa!”. Anh Vân luống cuống nói lời xin lỗi rối rít. Cô ta văng tục chửi thêm một câu nữa. Tôi thấy anh Vân hơi hoang mang bèn chổm tới, vung tay vỗ cái bốp vào mông cô ta: “Địt mẹ con ranh! Có câm mõm không? Thày tao đấy!” Cô gái toét miệng: “Em biết đéo đâu!” rồi ngoan ngoãn rót rượu cho chúng tôi.

Lúc ấy anh Đào Hùng mới tới, thấy sự việc vừa diễn ra, anh cười cười bảo cô gái: “Cô đem cái ghế ra đây mời tôi ngồi rồi tôi chỉ cho coi”. Cô gái thật thà lấy thêm ghế. Anh Đào Hùng ngồi xuống uống một li, chỉ vào anh Vân mà rằng: “Ông này đích thực là đồ vô văn hóa, đúng không? “Đúng!” - “Ở đây là ga. Ga là nhà, khách là chủ, đúng không?” - “Đúng”. Anh Đào Hùng chỉ vào cô ta cao giọng: “Phạt!” Cô gái ngớ ra. Anh Đào Hùng rót một ly tràn đưa cho cô ta! “Uống hết rồi tôi nói”. Cô gái uống cái rẹt! Anh Đào Hùng rót thêm li nữa đưa cho cô ta, cô gái nhăn mặt lắc đầu. Anh phán: “Cô mắng chúng tôi tức là mắng chủ. Đúng không?”- “Đúng”. “Chủ có quyền phạt ai người đó phải chịu”, anh tiếp: “Cô phải uống hết li nữa rồi tôi nói chuyện với ông này!”. Cô gái ngửa cổ uống gọn luôn.

Anh Đào Hùng quay ra nói với chúng tôi: “Ở đây chỉ có thằng Đỉnh là văn hóa cao thôi, các ông toàn là đồ vô văn hóa hết!” Anh Vân nói: “Mình đã xin lỗi rồi….” Anh Thái Bá Lợi nâng li, nói: “Thôi, xin chia tay các ông anh vô văn hóa. Rồi quay sang Thái Bá Vân nói tiếp. Ở đây là văn hóa ga mà ông anh xin lỗi thì thật là phù phiếm. đích thị là vô văn hóa rồi còn cãi gì nữa”..

Thái Bá Lợi thủng thẳng khoác ba lô lên vai, bắt tay chúng tôi rồi nói thủng thẳng: “văn hóa Ga phải chửi tục như Đỉnh mới gọi là có văn hóa chứ!” rồi lặng lẽ đi ra cửa, nhập vào đám khách nhốn nháo ngoài sân ga, lẫn luôn vào trong họ.