Đại hội đại biểu Hội nhà văn lần thứ X được tổ chức ở Hà Nội, Nguyễn Trí không có tên: trong đại hội khu vực Miền Đông- Miền Tây Nam bộ, ông chỉ có 3 phiếu bầu, một kết quả ngỡ ngàng. Tất nhiên hậu trường chuyện bầu bán, “xin phiếu” cũng khá nhếch nhác, nhưng có một thực tế: ông không được lòng hoặc không được sự công nhận rộng rãi của nhà văn khu vực, bị ghét, hoặc bị đố kỵ
NGUYỄN TRÍ VĂN VÀ ĐỜI
LÊ HOÀI LƯƠNG
1.
Ngay tập
truyện ngắn đầu tay “Bãi vàng, Đá quý, Trầm hương” (2013), Nguyễn Trí đã đoạt
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Rồi thành nhà văn Hội trung ương. Đến nay,
hơn mười năm cầm bút, ông đã in ngót 20 đầu sách, truyện ngắn, tiểu thuyết, cả truyện
thiếu nhi nữa. Một sức viết đáng nể. Và đáng kể: sách được các nhà xuất bản in,
phát hành. Truyện ngắn ông xuất hiện trên nhiều báo, tạp chí.
Ở đâu ra nhiều
ý tưởng vậy? Từ chính cuộc đời quăng quật mưu sinh khốc liệt của mình: đãi
vàng, đá quý, tìm trầm, chặt củi, đốt than, nấu đường lậu, mót trộm mủ cao su,
cưa kéo, đồ tể, phụ hồ, vé số, xe đạp ôm, cả dạy thêm tiếng Anh… Tất tần tật thợ
“đụng”, tồn tại cùng những người dưới đáy xã hội.
Văn Nguyễn
Trí để lại dấu ấn bằng ngồn ngộn chất liệu sống. Những kiếp phận tột cùng lấm
láp, những sứt sẹo nhân tính; những mong manh thiên lương ấy hiện lên sống động
bằng sự trải nghiệm của tác giả. Cách kể chuyện của ông độc đáo, pha trộn thoải
mái lời thoại các nhân vật với tác giả, với nhập vai người đọc: nhà văn vừa bị
động vừa tung tẩy giữa sống và viết bằng ngôn ngữ lầm bụi và khoái hoạt. Đó là
cái duyên riêng không trộn lẫn.
Mấy năm qua
ông kiếm tiền bằng việc cầm bút. Cũng kha khá. Dẫu “tiền vào nhà khó…”, nhưng
lý lịch ông thêm nghề mới có vẻ cao quý: nghề văn.
Nếu cái giải
thưởng sang trọng Hội nhà văn 2013 như “từ trên trời rơi xuống”, thì các giải
thưởng văn chương tiếp theo của Nguyễn Trí mọi người không mấy ngạc nhiên: Giải
nhất truyện ngắn Cuộc thi “Rừng là cuộc sống của tôi” do Tổng cục Lâm Nghiệp và
báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức (2019-2020), truyện “Cây bằng lăng đẫm máu”;
Giải B Cuộc thi tiểu thuyết “Vì an ninh Tổ quốc” (2017-2020) do Bộ Công an và Hội
nhà văn Việt Nam tổ chức, tác phẩm “Diều hâu”; Giải tư tiểu thuyết 5 năm của Hội
Nhà văn Việt Nam (2016-2019), tác phẩm “Bụi đời thục nữ”. Nói không ngạc nhiên
vì tên tuổi ông đã khá “hot” nhiều năm qua trên báo, trong bạn đọc.
Nguyễn Trí
sinh năm 1956 ở Bình Định, xô dạt nhiều nơi, Pleiku, Kon Tum, Sài Gòn…, nay sống
Đồng Nai. Giờ đã có một ngôi nhà của mình, ngày ngày phụ vợ cái quán nhỏ “xi rô
đá bào”, làm chào hàng sách, bán sách cho mình, cho người. Và viết văn, cứ đều
đặn in, một năm vài cuốn. Vẫn còn trường lực lắm.
2.
Trong văn giới
có chữ “bà đỡ”, “mắt xanh”, chỉ những nhà văn phát hiện cái hay, cái lấp lánh
những trang viết mới vào nghề ẩn trong thô vụng. Nhà văn có tấm lòng, có trách
nhiệm hoặc trao đổi cho tác giả vô danh hoàn thiện phần chưa ổn, hoặc chỉnh sửa,
biên tập, “dọn dẹp” những hạt sạn là có tác phẩm độc đáo. Đôi khi chỉ một ứng xử
trân trọng, một lời động viên kịp thời của người danh tiếng cũng giúp cây bút mới
tự tin thể hiện mình, và đi xa. Chuyện này với văn chương nghệ thuật đất nước
nào, thời nào cũng có.
Ở Việt Nam gần
đây, nhiều người biết nhà văn Hồ Anh Thái là người có “nhân duyên” đỡ đầu, giới
thiệu nhiều tác giả như Mạc Can (Tấm ván phóng dao), Nguyễn Vĩnh Nguyên (Năm mười
mười lăm hai mươi), thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh… Nguyễn Trí cũng trong số đó: ông
tìm đến nhà văn này, khi nghe người ta kể về số phận tiểu thuyết của ông hề xiếc
Mạc Can. Nguyễn Trí xin địa chỉ email của Hồ Anh Thái và thử gửi một số truyện
ngắn, hy vọng nếu được in trang Đại biểu Nhân dân do nhà văn này phụ trách, sẽ
có ít tiền. Không ngờ, rất nhanh chóng nhận được phản hồi, và Nín lặng khóc còn
được nhà văn giới thiệu in trên Tuổi trẻ cuối tuần. Mừng lắm, tờ báo có lượng độc
giả lớn và nhuận bút cao. Nghĩ mình cũng có thể cầm bút, và viết như… “khùng”,
một tuần đến 2 cái truyện! Khi Nhà xuất bản Trẻ tập hợp, in thành tập “Bãi vàng Đá quí Trầm hương”, cuốn sách vượt qua Hội đồng văn
xuôi khá lừng khừng- không phải nhà văn nào cũng tán thưởng văn Nguyễn Trí- dù
sau đó Ban chung khảo nhất trí cao trao giải thưởng Hội nhà văn năm 2014 cho
ông!
Nếu không có
giải thưởng như cuộc “vượt vũ môn” trong mơ này, có Nguyễn Trí hôm nay không? Vẫn
có, chắc chắn. Ông kể với tôi, khi nghe tin giải thưởng, ông xách cái xe máy
Trung Quốc cà tàng chạy suốt ba ngày, bất kỳ, long rong trong rừng cao su, đến
nhà vài người bạn, cho thỏa nỗi mừng, rồi thôi. Sao chỉ có ba ngày? “Con người
tôi vốn vậy, niềm đau trong đời tôi lớn hơn vinh quang này. Cha tôi chết, bi
thiết lắm. Anh tôi chết, cũng bi thiết lắm. Anh chết, cha chết, tôi không có ở
nhà. Mẹ tôi chết, khi tôi về đến nhà, nắp áo quan đã đậy rồi. Đứa con gái của
tôi bị người ta đâm chết, bi thiết. Rồi đứa con trai bị ma túy, hai đứa cháu nội
bị mẹ bỏ đi… Những người bạn của tôi chết trên non cao. Đó là lý do tại sao cái
chết ám ảnh trong truyện tôi. Vì thế, khi được tin giải cao quý về văn chương
trong nước, tôi cũng mừng nhưng đến ngày thứ ba hết mất!” (Trả lời báo Tiền
Phong, 2014).
Niềm đau
trong đời tôi lớn hơn vinh quang này, kiểu so sánh khập khiễng chỉ có ở… nhà
văn, nhưng đáng chú ý: nó là căn nguyên những khác biệt văn và người Nguyễn
Trí.
Tất nhiên,
niềm vui có thể chỉ trong ba ngày- một cách ước định- nhưng cái “vinh quang”
này không dừng lại: những cuộc trả lời báo chí, những “đặt hàng” các báo, các
nhà xuất bản, và nhất là phải viết sao cho xứng với “tầm” nổi tiếng. Rồi trong ứng
xử, quan hệ với bạn văn chung quanh: nhiều người vốn coi Nguyễn Trí là “đàn em”
mới tập tành cầm bút… Cái “gánh” không nhẹ chút nào. Văn chương Việt thời này lạ
lắm: nhà thơ Trần Đăng Khoa từng than rằng mấy chục năm sau vẫn phải còng lưng
gánh cái thập giá khổ nạn “thần đồng” thơ tuổi nhỏ đấy thôi!
Thời gian sẽ
xếp đặt lại các hỗn loạn giá trị, nhưng thường muộn hơn những mê tín, đồng
bóng, cố chấp đương thời, những ngợi ca hay vứt bỏ, nhất là với cái mới, cái
khác biệt trong văn chương. Nguyễn Trí là tạng nhà văn nhanh chóng rơi vào vùng
xoáy khắc nghiệt này.
3.
Cuối năm
2020, Đại hội đại biểu Hội nhà văn lần thứ X được tổ chức ở Hà Nội, Nguyễn Trí
không có tên: trong đại hội khu vực Miền Đông- Miền Tây Nam bộ, ông chỉ có 3
phiếu bầu, một kết quả ngỡ ngàng. Tất nhiên hậu trường chuyện bầu bán, “xin phiếu”
cũng khá nhếch nhác, nhưng có một thực tế: ông không được lòng hoặc không được
sự công nhận rộng rãi của nhà văn khu vực, bị ghét, hoặc bị đố kỵ. Nhà văn bây
giờ cũng nhiều tủn mủn, bé mọn lắm. Không lấy việc dự đại hội để luận tài năng,
uy tín nhà văn, nhưng rõ ràng Nguyễn Trí có thất vọng, cuộc này.
Chúng tôi gặp
nhau ở nhà nhà văn Văn Chinh: nhân Nguyễn Trí trước đó vài ngày ra nhận giải
thưởng “Lâm nghiệp”, ông mời Nguyễn Trí về nhà mình ở và hôm sau thêm mấy anh
em đại biểu Bình Thuận, Bình Định, quen thân, tụ về. Cuộc khoản đãi thịnh tình,
lịch lãm của chủ nhà Hà Nội khiến chúng tôi rất xúc động. Nguyễn Trí thành tâm
điểm các cuộc vui, ở khả năng thuộc thơ người, thể hiện những tài vặt kiểu nhại
lại nội dung và giọng phát thanh viên đài Hoa Kỳ buổi phát 11 giờ ba mươi lịch
sử năm Bảy lăm, khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ. Nguyễn Trí có trí nhớ hàng
siêu, và hoạt ngôn: mấy tài vặt kể chuyện Tàu, kiếm hiệp Kim Dung, hát dân ca
các vùng miền, đọc thơ giang hồ hay đọc bản tin… từng giúp ông “sống sót” trong
tù, trong môi trường khốc liệt bãi vàng, đá quý, lăn lóc bụi đời…
Nhà văn Văn
Chinh, người “cầm chịch” chính Cuộc thi truyện ngắn khá thành công 2018-2020 của
Tạp chí Nhà văn & Tác Phẩm nhận xét về hai truyện ngắn dự thi của Nguyễn
Trí: “Nóng bỏng và “bụi bặm” nhất có lẽ là chùm của Nguyễn Trí: “Ai bảo đi tù là khổ”, “Có ai ở đó không”. Nguyễn Trí có cách kể thật náo hoạt,
đọc rất hấp dẫn; chỉ tiếc, sau sự ly kỳ hấp dẫn thì cái triết luận từ đó vẫn
loanh quanh đâu đó.”
Chính Văn
Chinh gọi điện mời Nguyễn Trí dự Trại sáng tác ở Sao Việt- Phú Yên và dành cho
ông một biệt lệ: lấy tiền túi trả trước nhuận bút cho Nguyễn Trí tàu xe, tiêu vặt,
kỳ vọng cuộc thi đa giọng điệu, xôm tụ anh tài. Thì đúng, sự góp mặt của Nguyễn
Trí thêm màu sắc cuộc thi. Nhận xét tinh tế của Văn Chinh hẳn gặp sự đồng thuận
lớn trong văn giới về Nguyễn Trí, không chỉ riêng hai truyện này. Cái phần
“loanh quanh đâu đó” chưa bật ra, cái mà cũng có ý cho rằng tác phẩm Nguyễn Trí
dường như thiếu tư tưởng- cái văn chương nhằm tới; kẻ sính chữ thường bảo
“thông điệp” gì gì đó. Có thể.
Chuyện Hội đồng
văn xuôi năm bỏ phiếu cho “Bãi vàng, Đá quí, Trầm hương” không đạt đồng thuận cao kể trên,
tôi muốn nhắc tới một trong số đó: nhà văn Sương Nguyệt Minh. Có lần ông nói với
tôi và một bạn văn khác, rằng văn Nguyễn Trí “nhôm nhoam” thế nào ấy. Đó không
phải chuẩn mực của văn chương, nói trắng ra, chữ nghĩa Nguyễn Trí chưa ổn. Điều
đáng quý là một lần gặp nhau, chính Sương Nguyệt Minh cũng nói thẳng với Nguyễn
Trí, và ông không bỏ phiếu cho vàng- đá- trầm. Tôi không lạ: Sương Nguyệt Minh
là nhà văn rất chú trọng, chỉn chu chuyện chữ nghĩa; câu văn phải tinh tươm, mực
thước, phải đẹp; chi tiết và hình tượng nhân vật phải đọng lại, ám ảnh… Cũng là
cách viết phổ biến của nhiều nhà văn phía bắc. Và điều này lý giải phần nào
truyện Nguyễn Trí xuất hiện nhiều ở phía nam, ít được các diễn đàn Văn Nghệ,
Văn nghệ Quân đội… in. Bình thường thôi, thói quen và dư vị văn chương vùng miền.
Có thứ khác
đáng nói: “chiếu” văn ở nhiều nơi còn nặng phân biệt cái danh “nhà văn trung
ương”, “nhà văn địa phương”- việc nhảm nhí, thảm hại của kẻ bất tài- khi thực
chất tư thế nhà văn là ở tác phẩm. Và bạn đọc. Kẻ nhân thân lầm bụi, dưới đáy-
Nguyễn Trí, khi cầm bút, vào hội địa phương bị nhiều vị “trung ương” coi nửa
con mắt; khi được giải sang trọng và được xếp ngồi “chung chiếu”, lại lắm kẻ
không thể chấp nhận được. Sắm vai sang trọng, đố kỵ cách gì, họ- những người
phiêu diêu tự sướng với cái danh hão- nằm mơ cũng không thể có tác phẩm in kìn
kìn, có bạn đọc, như Nguyễn Trí.
4.
Nhà văn Lê
Minh Khuê, một cây bút văn xuôi có tầm, điềm đạm và chừng mực nhận xét về Nguyễn
Trí: “Trí miêu tả cuộc sống theo cách Trí. Bản thân Trí từng ở Bến tắm ngựa, gọi
theo cách giang hồ đặt tên cho nơi tập hợp những người cực khổ nhất gầm trời.
Khi gặp Trí thấy anh có khuôn mặt của người ở bến này nhưng lại có một tâm hồn
rất trẻ thơ, chân thành, cởi mở, có vẻ không giấu diếm cái gì, và có cả sự bồn
chồn của một người say việc. Trí đang say viết. Nhiều truyện ngắn đã được người
đọc đón nhận, Trí đã là người có bến riêng trong nghề và không thể trùng lặp với
ai.”
Còn Hồ Anh
Thái nói rõ hơn về giọng văn, chất văn Nguyễn Trí: “Văn chương tưng tửng, tung
tẩy đối đáp giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với người đọc, giữa người
viết với người đọc. Không cần rạch ròi phân định, bởi sự chồng mờ, chèn lấn tạo
nên nhiều sắc độ hơn và mở rộng liên tưởng hơn. Nguyễn Trí đưa người đọc đi qua
những cuộc đối thoại ấy, rồi cắt nghĩa từng khái niệm, cắt nghĩa từng hành vi
và tâm trạng của dân giang hồ. Những bươn chải, những mưu tính, những nghĩa cử
trong đám giang hồ với nhau, có lúc cuốn hút, có lúc gây hồi hộp, có lúc gây phẫn
nộ hoặc khiến người đọc rưng rung. Như vậy tác phẩm của Nguyễn Trí gây hấp dẫn
bằng chất sống thực và sự từng trãi”.
Tôi đã nhắc
nhiều nhà văn uy tín Hồ Anh Thái, Văn Chinh, Sương Nguyệt Minh, Lê Minh Khuê nhận
xét về Nguyễn Trí, dù ủng hộ hay không, một hiện tượng mười năm qua của văn Việt,
rất sôi động trên báo chí. Cả trên các trang văn chương mạng. Nhưng tuyệt nhiên
vắng bóng các nhà phê bình tên tuổi.
Họ né tránh.
Không chỉ riêng trường hợp Nguyễn Trí. Họ vẫn viết, vẫn in, nhưng chủ yếu là
đào xới quanh những tên tuổi nổi tiếng, đã mặc định qua thời gian. Một lựa chọn
an toàn chăng?
Nhiều diễn
đàn lý luận, phê bình gần đây, cả tổng kết của Hội Nhà văn cuối nhiệm kỳ cũng
nhắc tới sự yếu kém mảng phê bình.
Thực ra
không phải “gần đây”. Một nền phê bình văn nghệ ngái ngủ, trượt dài vào lối phê
bình định hướng, công thức, phê bình bình giảng…, ít nhất cũng hơn nửa thế kỷ.
Một đường mòn hủy diệt cảm thụ, sáng tác. Có chăng tích cực là mảng in ấn dịch
thuật phê bình, lý thuyết văn học đương đại thế giới vài mươi năm nay. Nhưng đó
là văn người, phê bình người. Còn ta, ngoài bạn văn đọc nhau, cảm nhận hoặc viết
cho nhau vài nhận xét, trường hợp Nguyễn Trí rơi vào im lặng khá điển hình cho
không khí, sức sống mảng phê bình hiện nay của văn Việt. Không đáng viết à? Một
năm vài cuốn sách, có bạn đọc, có dư luận, giọng văn riêng không trộn lẫn, các
giải thưởng nữa…, không đáng xem xét sao? Hay là văn chương bên lề: người “dưới
đáy”, người của bến tắm ngựa- tác giả và nhân vật- cũng là người kia mà? Vậy
thì thế nào là trung tâm?... Và cho dù nghĩ vậy, việc né tránh của phê bình
cũng là thiếu trách nhiệm.
Một nền văn
nghệ mà phê bình chỉ chọn lối thuận, hoặc né tránh, im lặng, thì nền văn nghệ ấy
chưa thể khỏe mạnh!
5.
Tiểu thuyết “Thiên đường ảo vọng” kể chuyện những người sa cơ, kinh tế
mới thất bát, kẻ ra tù, kẻ vượt biên bất thành, mất tiền, người yêu bị giết hiếp…
gặp nhau, lập băng tìm vàng, từ Suối Bến Tỷ đến Long Mỹ, với hy vọng đổi đời,
cái đời rách nát hoặc tứ cố vô thân, sứt sẹo lương tri. Và một ngàn lẻ một chuyện
đời thực na ná nhau của kẻ cùng đường với thực tế sinh động bãi vàng, từ sắm dụng
cụ, mua bãi, đào bổi, lắc mâm, xối máng… đến cô kết, khò lọc; từ kè hầm chống sập
đến đục tầng tìm vỉa, đánh thuốc nổ phá đá tảng; từ kỹ thuật kè ta luy đến cách
đưa từng bao quặng dưới âm ti lên; phí tổn và ăn chia, rượu và gái, cả hàng
đen, cờ bạc bãi vàng; tình yêu nữa, giang hồ gặp tứ chiếng…; tất cả hiện lên tỉ
mỉ, cụ thể với chất liệu thực hấp dẫn và phô phang.
Cái kết hẳn
nhiên đã được chỉ rõ ở tên sách: mộng đổi đời của hàng ngàn người đến bãi vàng
chỉ là thiên đường ảo vọng! Đủ kiểu chết: sập hầm, giết cướp, đánh nhau tranh
đoạt, rắn rết, sốt rét…; nếu trúng vàng cũng bị chia chác từ dân anh chị địa
phương, tiêu tán vào quán xá rượu, gái; và lực lượng chức năng truy quét, tù tội…
Quy luật mạnh được yếu thua nơi chỉ có “luật” bãi vàng- mạnh cơ bắp, võ nghệ,
đôi khi là gan, liều mạng, nhưng cũng cần cơ trí mới chinh phục giang hồ. Những
Cường Linh, Thành Võ, Tùng Hí, Ngọc Sún, Điệp, Lâm “quân sư”… hiện lên vừa đủ,
liều lĩnh và hào hiệp, trượng nghĩa…; và cái kết, bãi vàng khốc liệt thành vùng
đất trồng điều, kẻ đi tù về có chốn dung thân, cuộc tình Thành Võ- Bá Phượng có
hậu…
À, cuộc
tình. Rất nhiều cái kết của Nguyễn Trí nương vào chữ tình như tìm lối ra khỏi
ma trận của chính mình. Kết thúc truyện ngắn Bãi vàng là Thành trở lại bãi gặp
Dung. Kết Giã từ vàng là Minh Tàn và My, hướng về quê. Rồi giang hồ Thu Râu và
người đẹp Khánh trong Đá quý…
Cũng có đúc
kết, rải rác trong truyện hoặc phần cuối. Như “Đời sống chỉ có sự sống là đáng
quý, nhưng dường như con người ta chỉ biết đến điều ấy khi đối diện với cái chết.
Người ta sống và săn tìm tiền tài để mua địa vị và danh vọng. Chỉ những kẻ may
mắn thoát lưới tử thần mới ngộ ra đời không hề phù du như những kẻ yếm thế
nghĩ.” (Thiên đường ảo vọng). Hoặc: “Chẳng có ai là đồ bỏ, chỉ có kẻ không tìm
ra được đường đi của mình, hay bước nhầm vào vũng tối rồi không rút ra được”. Rồi:
“Một lóng cây dó tầm một người ôm, dài một mét chỉ một tay là đỡ lên nhẹ nhàng,
nhưng chính loại cây nầy lại cho ra một sản phẩm cực kỳ quý giá/…/ Vậy mà trầm
hương lại nặng và đó là một điều kỳ diệu khác mà loài người không thể giải
thích được.” (Trầm hương). Hoặc: “Đừng nghĩ cát là hèn. Hãy tưởng tượng một con
trai há miệng kiếm cái ăn, một hạt cát tình cờ vương lại, vậy là ra ngọc.” (Đá
quí). “Sau đó thì sao? Thì lâu lâu kéo vai áo xuống để cho phố thị biết một thời
ngang dọc, khoác lác xong lại buồn buồn kể về con rắn hổ mang bành. Rồi kết luận
tiền là tiên là phật, nó mua được tất cả, ngăn được tất cả các dòng chảy. Cả
dòng chảy của nước mắt.” (Trầm hương). V.v…
Nhưng, những
đúc kết hoặc triết lý này từ tiểu thuyết đến truyện ngắn, chỉ vụn vặt, hay như
nhà văn Văn Chinh nhận xét “chỉ loanh quanh đâu đó”.
6.
Mà sao phải
có đúc kết, “thông điệp” gì to tát về nhân sinh? Chúng ta cứ mãi đọc theo thói
quen chăng?
Thử điểm tên
những cuốn sách của Nguyễn Trí. Truyện ngắn có: Bãi vàng Đá quí Trầm hương, Đồ
tể, Ngụy, Khùng, Mạt cưa mướp đắng đường vàng, Bên kia của ánh sáng…, tiểu thuyết
thì: Thiên đường ảo vọng, Ngoi lên từ đáy, Bụi đời và thục nữ, Ăn bay, Diều
hâu…, ngay truyện dài thiếu nhi cũng có tên Tuổi thơ không có cánh diều. Thêm nữa
nhé, tên từng truyện ngắn: Bóng tối, Đen hơn bóng tối, Bể khổ, Kể chuyện giải sầu,
Trái đắng, Mì gõ vé số và cà phê đèn mờ, Nín lặng khóc, Màu của bóng tối, Buồn
như cuối năm, Khóc không thành tiếng, Nỗi buồn của Linh, Những người tối suốt,
Bi kịch giữa đời thường, Buồn ơi là buồn, Nỗi buồn trong mắt sâu, Nước mắt khô,
Lưu vong, Người điên không biết nhớ, Cạn chén đời, Vinh Liều, Sinh nghề tử nghiệp,
Tết lao cải, Lưu manh, Cây bằng lăng đẫm máu, Quỷ dịch…
Nhiều nữa, rất
nhiều, chỉ tuyền những tên truyện về sầu, buồn, bóng tối, say, điên, nước mắt,…,
với vô vàn “chúng sinh” sống đời lăn lóc, rách nát, vất vưởng, bạt mạng, được
chăng hay chớ…; chữ nghĩa khái quát là những “bi kịch giữa đời thường”... Rồi
thế giới tội phạm, từ buôn lậu, xì ke, ăn bay trên tàu thời bao cấp, ăn bay những
chuyến hàng đi Cam pu chia thời chiến tranh biên giới Tây nam, đến tổ chức vượt
biên, trấn lột, cướp cạn, lừa đảo, giết người…, đủ cả. Cũng có tên nhân vật,
nhiều khi trở đi trở lại những Minh Tàn, Thành Võ, Hoàng, Dũng, như nguyên mẫu
bạn bè và chính mình trong đời thực, nhưng chủ yếu thế giới “dưới đáy” có tên
chung là “ta bà”. Thế giới này lổn ngổn, ngọ nguậy, trật trìa miếng ăn, lầm lỡ
tình duyên, nghiện ngập, phạm pháp, bị cuộc sống dồn đuổi.
Nhưng họ
cũng là người. Họ sẽ tồn tại theo cái cách của mình. Đơn giản, Nguyễn Trí muốn
nói rằng có thế giới ấy, rất thực, thế giới ông từng thuộc về. Và đang là, ở vị
thế khác.
7.
Bầy trẻ ranh
tuổi học trò dính ma túy trong “Quỷ dịch” rồi sẽ đi về đâu? Có cách gì cứu
chúng không tiếp tục sa chân vào hố thẳm hủy hoại một kiếp người và để lại những
di hại xã hội? Chuyện cái “tổ quỷ” chỗ thằng Trung và đường dây cung cấp ma túy
cho trường học có thể bị triệt phá, nhưng rồi ai dám chắc sẽ không có “tổ quỷ”
khác mọc lên?
Những con
người nhiều nghịch cảnh, những nhọc nhằn và khổ lụy để mưu sinh, cả khốc liệt tồn
tại, như Thắm- Phi Hổ, Năm- Lựu Đạn: cuộc đời dồn ép họ thành quyết liệt nhưng
tận thẳm sâu vẫn lấp lánh ánh thiên lương. Giọt nước mắt của Thắm, thái độ dứt
khoát vạch trần cái “tổ quỷ” của ông Năm là chút ấm áp hy vọng. Cái còn đọng lại
trong bạn đọc, đôi khi chỉ như một nhắc nhở rằng, đang tồn tại những con người
với mảng đời lăn lóc như thế, một vấn nạn xã hội như thế.
Hoặc “Minh
bay” kể về một nhân vật thuộc giới “đầu trộm đuôi cướp” ở Vùng Mười Xóm Chợ, một
địa chỉ hàm ý dân góp, dân tứ chiếng. Minh hớt tóc, Minh Ếch hay Minh Bay là
nhân vật chính được dẫn chuyện bởi Minh Trí hay Minh Tàn, cũng người “phong trần
tù tội”. Bối cảnh là những năm sau Bảy lăm, thời bao cấp khó khăn, thời pháp luật
và người chấp pháp địa phương còn lộn xộn, hỗn mang. Nội việc soát xét cái giếng
nhà cha Minh Bay đã cuốn hút như chuyện phim trinh thám. Và cái bí mật cuối
cùng bật lên khi từ giếng này thông với giếng kia, nơi nhà của cô tình nhân, vợ
một sĩ quan Việt Nam cộng hòa, chủ tiệm vàng. Chuyện trong tù, chuyện hối lộ ở
trại giam, chuyện thó đồ khách trên tàu, chuyện sống cùng em sương phụ, đổi đời
của Minh Bay…, tất tất đều thú vị. Có một chút vấn đề xã hội, nhưng cái chính
là số phận một con người, những con người ranh ma, tồn tại trong cảnh khốn
cùng, nhiễu nhương. Thực chất, con người sẽ tồn tại ra sao nếu bị dồn vào đường
cùng, chí ít là kiểu “bần cùng sinh đạo tặc”? Giọng văn hoạt, diễn biến sự việc
sinh động, biến hóa, một Minh Bay hiện lên trí trá để tồn tại không hề khiến
người đọc coi thường hay lên án, thậm chí còn có cảm tình. Ghét hay cảm tình
cũng không hề là chủ ý của tác giả. Nhà văn chỉ kể cho chúng ta nghe về một tạng
người, một tuýp người có thật trong cuộc sống, và với sở trường của mình.
Hoặc với “Mì
gõ vé số cà phê đèn mờ” là nợ nần không trả nổi tiền phòng trọ, là gái tình
duyên lận đận, lỡ làng, gái điếm. Cũng thợ đụng, lao động, mồ hôi dầu da đen,
khét nắng. Rồi rảnh rổi vợ nhà chơi tứ sắc, chồng léng phéng em út, cà phê đèn
mờ… Tô mì dằn bụng khuya khoắt quanh quanh ngõ hẻm cho tầng lớp nổi nênh này. Mở
đầu và kết thúc giống nhau: bất ngờ ai đó trúng số độc đắc, và họ biến mất khỏi
cái xóm nghèo, cóc cáy thân phận. Như một lối thoát duy nhất, một đổi đời duy
nhất. Cách đặt vấn đề này còn lồng thêm ý nhân tình thế thái: con người có thể
đùm bọc nhau khi khốn khó, nhưng bất ngờ một khoản tiền lớn rơi độp vào, là đổi
thay cách ứng xử. Đồng tiền biến anh lao động hôi rình thành hoàng tử của gái
điếm. Đồng tiền kết nối những đổ vỡ gia đình, v.v…
Còn “Cây bằng
lăng đẫm máu” là viết về lâm tặc, tạng trải nghiệm “phá sơn lâm, đâm hà bá”.
Chuyện cứ vậy mà tuôn ra, đời sống cứ thế mà hiện lên, “tha nhân” và “chính chủ”.
Nên sinh động, chân thật, cuốn hút, bằng giọng điệu riêng, rất đời, không trộn
lẫn. Nhưng “Cây bằng lăng đẫm máu” lại được dàn dựng bằng thủ pháp của “nghề”
văn: kiểu dẫn dụ “lườm rau gắp thịt”. Dụng công từ đầu qua Vị, người hướng dẫn
viên du lịch am hiểu rừng, yêu rừng như máu thịt và dẫn dắt đoàn khách qua chặng
đường dài rừng yên bình, thân thiện, từ “nhạc” vượn, đến những con cá sấu lành
hiền, những con vắt vô hại, và bao thứ ánh sáng, hương rừng, nhạc rừng hòa hợp
tuyệt diệu với con người… Để, bật lên cuối truyện tội ác của con người, bên cây
bằng lăng đẫm máu. Máu người. Máu rừng.
V.v…
Tôi nhặt
tình cờ trong hàng trăm truyện Nguyễn Trí, để thấy, đúng là như những tiểu thuyết
dài hơi Thiên đường ảo vọng, Ăn bay…, các truyện ngắn cũng không có phát hiện
gì cao siêu về tư tưởng, về nhân sinh. Nó chỉ “bạch hóa” phần đời sống vốn có mọi
thời, đang hiện hữu, sống động và thực đến xót xa.
8..
Nhưng sao
không có tác phẩm tầm những “Chí Phèo”, “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”… như một
thời, bạn sẽ thắc mắc vậy chứ gì?
Thực ra hàng
trăm nhân vật, cảnh đời trong văn Nguyễn Trí chỉ có một nhân vật và một cảnh dưới
đáy. Sẽ dễ dàng nhận ra, từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, Nguyễn Trí luôn lúng
túng cái kết. Nhân vật dưới đáy sẽ có cái kết thế nào? Bị pháp luật trừng trị
hoặc “ác giả ác báo”? Sẽ “quay đầu là bờ”, “buông dao thành phật” chăng? Sẽ
hoàn lương cho hợp đạo lý chăng? Sẽ tu tâm dưỡng tính, đi theo các mô hình làm
giàu kiểu vượt khó, người tốt việc tốt, gương điển hình… thay đổi số phận, đầy
dẫy trên báo chăng?
Các nhà phê
bình thích chí trích mãi câu Chí Phèo gào lên bi phẫn “Ai cho tao lương thiện”,
làm lời tố cáo xã hội thực dân phong kiến. Chị Dậu thì “Ngoài trời tối đen như
mực và như cái tiền đồ của chị”, cũng xã hội ấy; ông Nguyễn Tuân còn bình rằng
đừng nghĩ cái kết ấy bi quan tiêu cực, mà cần khơi cái bấc đèn hiểu của mình
lên là, “phải làm cách mạng” để đổi đời. Rồi cái bi- hài của Nguyễn Công Hoan,
truyện ngắn hay tiểu thuyết, cũng là tố cáo đanh thép xã hội chưa có cách mạng ấy…
Nguyễn Trí không thể viết như thế trong dòng “hiện thực xã hội chủ nghĩa”,
trong xã hội “ta”. Vả lại, văn chương bây giờ mà viết như bảy, tám chục năm trước
chẳng ai đọc đâu. Cũng như nhân vật phải có “phản diện”, “chính diện” một thời giờ
thành buồn cười, khi dù không muốn, phải thừa nhận tâm hồn người phức tạp hơn
nhiều, đa diện, đa nhân cách, tốt xấu không phải lúc nào cũng rạch ròi.
Nguyễn Trí
không “tố cáo”, không “ngợi ca”. Giả dụ, không “kết” theo các kiểu đường mòn kể
trên, các nhân vật không theo định hướng đạo đức, phải đạo nào cả, cứ thuần bộc
lộ rốt ráo nhân bản, theo quy luật sống thì sao? Dĩ nhiên, sẽ khó chấp nhận, in
ấn. Hoặc từ chính lựa chọn của tác giả: tự trong thâm tâm khi cầm bút, Nguyễn
Trí muốn số phận nhân vật thay đổi. Một lần nhà văn trả lời báo chí: “Thằng bạn
của tôi đáng lý chết rồi nhưng ngoài đời nó chết oan ức lắm nên trong truyện của
tôi, tôi không để nó chết mà cho nó sống. Tôi còn cho nhiều nhân vật được sống
và được hạnh phúc nữa.”
Nguyễn Trí
đã loay hoay. Cả “áp lực” in ấn khách quan và sự nhập vai, lẫn lộn đời thực- đời
văn, ông có phần lúng túng và đôi lúc gượng, cuộc “thương” nhân vật của mình.
9.
Lý luận văn
học về “nhân vật điển hình”, “hoàn cảnh điển hình” đương nhiên chỉ phù hợp dòng
văn học hiện thực, dù “cái đuôi” là “phê phán” hay “xã hội chủ nghĩa”. Vậy văn
của Nguyễn Trí thuộc dòng nào? Không lãng mạn, siêu thực, không hiện thực huyền
ảo, và không mới đây- thần thực- Ngô Liêm Khoan gọi tên, mà ông rất tán thưởng
tác giả này. Hay hiện đại, hậu hiện đại? Cũng không.
Có một thực
tế, ngót một thế kỷ qua, văn xuôi Việt đã trải các Trường phái sáng tác: Lãng mạn,
Hiện thực, Hiện đại, Hậu hiện đại… Có thành tựu rõ rệt của Tự lực văn đoàn, của
Hiện thực phê phán, Hiện thực cách mạng. Văn xuôi Hiện đại từ những năm tám
mươi thế kỷ trước đến nay, cũng nhiều thành tựu. Còn Hậu hiện đại chưa thật định
hình. Nhiều tác giả cố gắng “lạ hóa”, thường rơi vào tạng pha trộn sống sít.
Và Nguyễn
Trí bất ngờ xuất hiện. Cực kỳ sinh động đời sống thực, những người và việc, thế
giới ông sống, trải nghiệm. Hấp dẫn. Mới lạ. Cuốn hút. Nguyễn Trí đã “kể” câu
chuyện của mình, theo cách mình!
Có dòng văn
học tư liệu, văn học phi hư cấu, văn học hư cấu… Nguyễn Trí ở dòng nào? Cũng
không rõ rệt. Không hẳn dòng hư cấu vì chính những trải nghiệm nhiều khi như “tự
truyện”, chất liệu thực chiếm tỉ trọng khá lớn, đầy thuyết phục. Nhất là cách kể
chuyện độc đáo không trộn lẫn, không thể thay thế: chính một nhân vật là thế giới
ta bà đã bật ra giọng kể hòa trộn, quỷ dị này. Cả hai, chất sống thực quyện hòa
cách kể khiến tác giả như đang sống chứ không phải viết, thành trang văn mang giá
trị riêng biệt.
Không cần gọi
tên “dòng” nào cả. Nhưng đã thực có một Nguyễn Trí, với những con người ở bến tắm
ngựa; với những phận người sa cơ, lầm lạc, dưới đáy xã hội.
Mùa đại dịch, 26/10/2021