Văn hóa truyền thống Tây Nguyên hiện đang bị nhiều tác động ngoài quy luật, dẫn tới những biến dạng bất thường, khiến những ai tâm huyết với vùng đất này không thể không xót xa.


 

NHỮNG BIẾN DẠNG BẤT THƯỜNG

ĐẶNG BÁ TIẾN

Bất cứ một nền văn hóa nào cũng đều chịu sự tác động của thời gian, do vậy sẽ có những biến dạng. Có những biến dạng lớn, thậm chí đến mức mất hút vào thời gian, nhưng người ta không cảm thấy nuối tiếc; bởi đó là thứ biến dạng có tính quy luật, tất yếu. Nhưng cũng có những biến dạng không nằm trong quy luật vận động của xã hội mà do chính con người thiếu hiểu biết, hoặc do chủ ý vụ lợi gây nên.

Văn hóa truyền thống Tây Nguyên hiện đang bị nhiều tác động ngoài quy luật, dẫn tới những biến dạng bất thường, khiến những ai tâm huyết với vùng đất này không thể không xót xa.

Đã sống ở Tây Nguyên gần 40 năm, từng tới hàng trăm buôn làng của đồng bào các dân tộc bản địa Tây Nguyên, từng ăn chung, ngủ chung, từng có hàng trăm đêm nằm tâm tình với những người bạn Ê đê, M’nông bên bếp lửa đặt giữa nhà dài của người Ê Đê, hay trong góc nhà trệt lụp xụp của người M’nông, “từ lúc Thần Mặt trời mỏi lưng đi ngủ đến khi Thần Mặt trời tỉnh giấc”, nên tôi hiểu khá sâu sắc những điều gan ruột của đồng bào, những gì họ nghĩ và những gì họ mong muốn. Nhờ vậy, tôi cũng biết được nguồn cội của nhiều lễ nghi, tập tục sinh hoạt văn hóa truyền thống của đồng bào Tây Nguyên. Có thể nói: Tất cả các nghi lễ, tập tục sinh hoạt văn hóa ở Tây Nguyên đều gắn bó mật thiết với rừng, với không gian rừng, chí ít cũng dính líu tới cây, tới suối...

Nhà văn Nguyên Ngọc, người am hiểu văn hóa truyền thống của đồng bào Tây Nguyên đã rất chí lý khi gọi văn hóa truyền thống Tây Nguyên là “văn hóa rừng”. Bởi từ xa xưa đồng bào Tây Nguyên đã rất yêu quý rừng, rất có ý thức bảo vệ rừng. Điều này được thể hiện rõ trong Điều 80 của Luật tục Ê Đê, quy định hình thức xử phạt nghiêm khắc với những ai đốt rừng, chặt cây rừng bừa bãi: “Cây le đang đâm chồi thế mà họ chặt mất ngọn, cây lồ ô đang đâm chồi thế mà họ chặt mất đọt, nếu người ta bắt được họ đem cho người tù trưởng nhà giàu thì chân họ tất phải trói lại ngay, tay của họ người ta tất phải xiềng lại ngay”... “Cả rừng le bị cháy khô, cả rừng lồ ô bị cháy trụi; hang thỏ, hang chồn đều bị thiêu trụi tất cả... Nếu ai biết được con đàn bà ấy là ai, thằng đàn ông ấy là ai thì phải xét xử buộc bồi thường nặng”. 

Ảnh: Đặng Bá Tiến.


Rừng không chỉ là nguồn sống của họ mà còn là cõi thiêng liêng. Cũng vì thế mà có Thần Cây, Thần Rừng, trước khi đi săn người ta phải cúng Thần Rừng, trước khi chặt cây gỗ về làm K’pan (ghế dài làm bằng cây gỗ liền, không ghép nối) phải cúng Thần Cây. Bên cạnh lời cúng, người ta đánh chiêng để giao tiếp (xin phép) với thần linh. Tiếng chiêng trong không gian rừng nghe vừa vang vọng, vừa thăm thẳm, u ẩn, quấn quýt, thân gần, như là “sợi dây” liên kết con người với thần linh. Tiếng ông thầy cúng hú gọi thần linh, hú gọi ông bà tổ tiên trên bến nước khi làm lễ cúng, có tiếng nước róc rách hòa âm, có những cổ thụ cao vút, tán che rợp một vùng đứng uy nghi bên cạnh, sẽ gợi trong lòng mọi người sự gần gũi, chở che của thần linh, tạo cho người ta sống có niềm tin, dù chỉ là niềm tin mơ hồ huyền bí...

Thế nhưng hiện nay rừng đã bị tàn phá gần hết. Rừng đã lùi xa buôn làng. Ngày xưa người ta chỉ phải đi cách nhà mấy “đoạn quăng dao” đã tới rừng. Bây giờ nhiều buôn đi bộ cả ngày chưa tới rừng. Cũng vì vậy đâu còn những cuộc săn của lũ trai làng, đâu còn các Gru (dũng sĩ) săn voi tổ chức các cuộc săn kéo dài nửa tháng liền “từ khi chưa thấy Thần Trăng đến khi Thần Trăng ngồi trên trời cao tròn và vàng rực như quả cam chín”, đâu còn “những ông già, những ông trẻ” rủ nhau vào rừng đẽo gỗ làm K’pal... Cũng vì thế đâu còn những lễ cúng đích thực trước khi chặt cây, trước khi đi săn - những lễ cúng vốn là sự bắt buộc của phong tục, là sự thôi thúc của tâm linh.

Đó cũng là lý do nhiều buôn làng hiện nay không còn thầy cúng, không còn người biết cúng, không còn người biết đánh chiêng và chiêng không còn là vật thiêng trong nhà, bị người ta rẻ rúng, đem bán cho các bà đồng nát (báo chí một thời gọi là hiện tượng chảy máu cồng chiêng).

Gần đây khi nhà nước có chủ trương bảo tồn và phát huy các giá trị của văn hóa truyền thống Tây Nguyên, nhiều lễ cúng, nhiều sinh hoạt văn hóa bị bỏ quên khá lâu, nay mới được phục dựng, nhiều bộ cồng chiêng được mua sắm và gìn giữ. Nhưng chính sự phục dựng các lễ nghi, sự triển khai các dự án bảo tồn bên cạnh mặt tốt cũng nảy sinh nhiều vấn đề đáng nói, đáng bàn, khiến những ai yêu quý, tâm huyết với văn hóa truyền thống Tây Nguyên đích thực có nhiều băn khoăn.

Băn khoăn, vì có những trường hợp lễ cúng được phục dựng không xuất phát từ thôi thúc nội tâm, từ quan niệm tâm linh truyền thống của đồng bào mà chỉ xuất phát từ mục đích cá nhân của ai đó. Công việc phục dựng nhiều khi không do chính những người có hiểu biết về lễ nghi trong đồng bào tổ chức, thực hiện, theo đúng phong tục tập quán mà lại do một anh cán bộ văn hóa nào đó đạo diễn. Vì thế nhiều lễ nghi, nhiều sinh hoạt văn hóa truyền thống được phục dựng theo phong tục thì ít mà theo trí tưởng tưởng của anh cán bộ văn hóa thì nhiều. Người ta “phục dựng” cả thứ không có thực trong truyền thống, cốt sao thu được nhiều tiền từ các dự án, hoặc thu hút được nhiều khách tham quan.

Tôi còn nhớ một lần ở Bản Đôn tổ chức lễ hội văn hóa dân gian. Vị đạo diễn của ngành văn hóa tỉnh đã “cố gắng” đưa vào chương trình một nội dung có tên là Lễ hội lửa - một lễ hội lạ, đẹp mắt, rất cuốn hút người xem, đặc biệt là giới nhiếp ảnh. Tôi cũng là người mê ảnh đã chụp được một bức ảnh đẹp, gửi dự Liên hoan ảnh khu vực miền Trung - Tây Nguyên và được trao huy chương bạc. Sau đó một thời gian, có dịp trở lại Bản Đôn, tôi hỏi một số vị cao tuổi người bản địa: Lễ hội lửa là gì? nhằm mục đích gì? có từ bao giờ?... thì tất cả đều lắc đầu không biết (?!).

Việc sử dụng cồng chiêng hiện nay cũng hết sức tùy tiện. Chiêng ngày xưa được xem là vật thiêng, là phương tiện để giao tiếp với thần linh, người ta chỉ đánh chiêng khi có lễ thực sự, do nhu cầu tâm linh thực sự. Còn bây giờ chiêng được đánh bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu miễn là có người yêu cầu và trả tiền. Và vì vậy cồng chiêng đang bị người ta sân khấu hóa, thương mại hóa một cách công khai, bất chấp truyền thống... Người ta quên mất một điều hết sức quan trọng, rằng, muốn bảo tồn và phát huy được giá trị của cồng chiêng thì phải gìn giữ được “không gian sống” của nó.

Cồng chiêng tách ra khỏi “không gian sống” của nó khi đánh lên có thể gây được cảm giác lạ với ai đó lần đầu nghe cồng chiêng, nhưng nghe vài ba lần sẽ cảm thấy đơn điệu nhàm chán. Điều này giải thích vì sao chính thanh niên bản địa cũng chẳng thích nghe chiêng, chẳng thích học đánh chiêng. UNESCO đã rất tinh tế khi công nhận “không gian văn hóa cồng chiêng” là kiệt tác văn hóa phi vật thể của nhân loại, mà không công nhận bản thân cái chiêng với một số bài bản âm thanh của nó...    

Cũng xin nói thêm là ở Tây Nguyên xa xưa chỉ có lễ (lễ cúng, lễ cầu) mà không có hội. Nhưng những năm gần đây người ta “bỗng” tổ chức rất nhiều lễ hội ở Tây Nguyên, nhằm mục đích thu hút du khách, có thêm “nguồn thu”; vì vậy mà có thêm nhiều sản phẩm “văn hóa Tây Nguyên giả cầy”; do chính những “cán bộ văn hóa quần đùi” (chữ dùng của GS-TS Tô Ngọc Thanh) tạo ra. Nhà văn Nguyên Ngọc cho biết, ông rất dị ứng với các lễ hội văn hóa như thế và gần đây trong một bài viết đã được đăng tải trên một số phương tiện thông tin đại chúng ông thẳng thắn giải bày “cần biết bi quan cho văn hóa Tây Nguyên”.