Trên báo Văn Nghệ TP.HCM số 659 ra ngày 14/10 có bài “Đối thoại với Nguyễn Quang Thiều” dài hơn 5,5 nghìn chữ. Xưa nay, trao đổi hoặc tranh luận cũng là điều bình thường. Thế nhưng, điều bất thường là thái độ và trình độ của người viết vốn ít khi gây thất vọng cho đồng nghiệp- nhà văn Trúc Phương. Năm nay 70 tuổi, lại có sức khỏe không tốt, nhà văn Trúc Phương cho rằng ông viết vì nhận được những thông tin “rất sốc và đáng lo sợ”. Hỡi ơi, đọc bài “Đối thoại với Nguyễn Quang Thiều”, không ai dám tin tác giả là nhà văn Trúc Phương từng có những tác phẩm “Cây sầu đâu sinh đôi”, “Bình minh trong đêm”, “Chuyến xe ngựa cuối cùng”, “Huyền thoại về loài hoa lạ”, “Lá không rơi vào mùa thu”…


ĐỐI THOẠI VỚI ÔNG NGUYỄN QUANG THIỀU

TRÚC PHƯƠNG

Tháng 11/2020, Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần IX, anh Nguyễn Quang Thiều được đắc cử chức Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Trong lời phát biểu nhậm chức, nếu tôi nhớ không nhầm thì anh đã thật xúc động nói đến cụm từ hết sức cao nghiêm là “cuộc chuyển giao thế hệ”. Và tất cả hội viên đã ra về sau tràng pháo tay cùng những ly rượu chúc mừng với một niềm tin mới mẻ cùng sự đợi chờ. Đến nay thì gần một năm đã qua đi. Hội Nhà văn Việt Nam đã thay đổi từ cơ cấu tổ chức đến nhân sự, chương trình nghị sự, kế hoạch hành động. Và tất cả bộ máy đã vận hành như thể là trơn tru. Tôi mừng và tiếp tục đợi chờ thành quả mới, niềm cảm hứng mới từ thế hệ trẻ vừa nhận sự chuyển giao. Để rồi… những ngày cuối năm này, tôi liên tiếp nhận được những thông tin thật là đáng lo ngại, nếu không nói là rất sốc và đáng lo sợ!

Tôi xin được trình bày những mối lo của mình trong tư cách một nhà văn thuộc thế hệ cũ, sống viết với Chủ nghĩa hiện thực cũ, và bút pháp, thi pháp cũng đã cũ hơn cả tuổi đời của mình.

Đang trời trong gió mát, bỗng nghe réo rắt bên tai lời trầm bổng hết sức bi hùng từ một ngày buồn. Ấy là lời điếu từ của Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam về một tên tuổi lớn của văn đàn vừa vội ra đi ở tuổi bảy mươi! Tôi lắng nghe bằng cả tai và mắt từ báo mạng và đài, cùng Livestream trực tuyến.

Xin được trích:

“Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói: “Khó nhất không phải là tiền bạc, khó nhất không phải là tri thức, mà khó nhất là đạo đức, nhà văn chỉ là người đi tìm đạo cho dân”. Đây là bản tuyên ngôn về sứ mệnh của người cầm bút.

… Nói đến ông lúc này là để nói với chính chúng ta về sự dấn thân, về lương tâm và lòng quả cảm của người cầm bút.

“… Và lúc này chúng ta nghe, những ngọn gió ngân vang
Trên những ngọn núi, những cánh đồng Hua Tat
Cùng tiếng rì rầm mãnh liệt của chính dòng sông
Chảy qua đêm tối về biển cả không gì ngăn được
Đâu đấy trên những cánh đồng nhớ thương hoàng hôn đau đớn
Một đám mây mang tên Nguyễn Huy Thiệp
Thả xuống những cơn mưa của tự do và lấp lánh
Trong vang dội tiếng sấm dọc chân trời

Những nhân vật của ông đang thắp những ngọn nến
Và cất lời cầu nguyện

Hãy thanh thản ra đi, Nguyễn Huy Thiệp, hỡi chàng hiệp sỹ
Cùng thanh gươm ngôn từ hắt sáng ban mai…”

Cùng một số bài báo ngợi ca Nguyễn Huy Thiệp như sau:

“Một văn tài hiếm hoi của văn đàn Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX”

“May mắn chúng ta còn có Nguyễn Huy Thiệp”. (Chứ nếu không thì đồng nghĩa với nền văn chương và thơ ca Việt Nam cuối thế kỷ XX vừa qua bị thất mùa mất trắng? Chữ của NP) . V.v và v.v…

Tôi không nghĩ rằng anh Nguyễn Quang Thiều đã lợi dụng đám tang anh Thiệp để phát đi lời hiệu triệu đối với các tín đồ Hậu hiện đại Chủ nghĩa, hay phát đi tín hiệu của một chủ soái, một lãnh tụ đã trèo lên đỉnh cao vũ đài văn chương – chính trị trong xã hội và đất nước Cộng Sản này một cách danh chính ngôn thuận. Nhưng rồi tôi bỗng chợt nghiệm ra ý nghĩa thâm sâu của cụm từ “cuộc chuyển giao thế hệ” mà nhà thơ Nguyễn Quang Thiều xúc cảm đọc lên với giọng ấm trầm của một nhà hùng biện trên cao hội trường Đại hội hôm nào, uy nghi như một Giáo chủ thực thụ.

Anh Thiều công khai, thẳng thắn, tâm huyết khi đứng ra bên đám đông người dự lễ tang để mạnh mẽ, trang nghiêm thuyết trình về việc phục hồi, khẳng định và tạc tượng ở cấp độ tinh thần cao nhất cho nhà văn Nguyễn Huy Thiệp trong tư cách một linh hồn hiển hách dưới trần. Anh Nguyễn Quang Thiều đã có một bài điếu văn, đồng thời là một tuyên ngôn, niềm xác tín dành cho anh Thiệp (không phải vì lý do nhân đạo hay văn hóa “nghĩa tử là nghĩa tận”) về một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, người có công đóng góp rất lớn cho nền Văn học – Nghệ thuật nước nhà, một ngọn cờ đầu trong bứt phá nghệ thuật, tạo ra một trào lưu sáng tác mới hừng hực và sôi động. Tôi nhận thấy đây là một sự ngang nhiên, bừa bãi và ngạo mạn hơn là một thái độ dành cho sự công bằng, công chính mà xã hội đòi hỏi phải có cho nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

Năm 1980, ngày tôi còn học trong Trường Viết văn Nguyễn Du, các bạn có photo bản in roneo những truyện ngắn của anh Thiệp đưa tôi đọc. Tôi có đọc tham khảo. Truyện lạ nhất, giật gân nhất mà các bạn cùng học hay xì xào là truyện “Tướng về hưu”. Tôi đọc đến hai, rồi ba lần nhưng vẫn không thấy hay, không thấy thích được, cả mặt bố cục, nghệ thuật truyện ngắn cũng không có gì gọi là đặc sắc. Tôi thấy đây là cái truyện không phải của những người xả thân, tâm huyết, và thành thật của “những người trong nhà”, mà nó như một cuộc đột kích của một kẻ biệt kích vào phía sau nhà… của xã hội cơ cực, túng bấn mà cũng rất thanh cao lúc bấy giờ.

Tất cả các nhân vật đều được NHT (xin phép được viết tắt cho nhanh) nắm đầu, xách, đặt vào vị trí mà NHT muốn, như sắp những con cờ cho một cuộc chơi ngộ nghĩnh và bí hiểm. Nhân vật trung tâm là vị tướng, không biết hồi ở chiến trận thì sao, song, lúc về hưu thì có vẻ khù khờ, ngú ngớ, đôi khi lẩn thẩn. Nhưng có lẽ NHT đã không đi bộ đội nên anh ta mới tả về vị tướng không giống với nhiều vị tướng mà tôi đã gặp, đã tiếp xúc và từng ăn cơm uống trà, uống rượu, trò chuyện một cách thân tình. Việc bố trí ông tướng vào ở ngôi biệt thự dành cho cán bộ cao cấp để làm cái cớ dẫn truyện, sau đó cho thêm mấy người nữa cùng chui vào biệt thự, có cả bà vợ không hề yêu mến, tình nghĩa, giống như thời Cải cách chật vật với những điều buồn trót đã xảy ra vì một số sai lầm không đáng có… (Ấy vậy mà khi bà mất, ông ấy khóc, muốn lấy gỗ quý đóng hòm để chôn, cũng lạ!?). So với ngoài đời thực, ông tướng trong vai chủ nhà này chỉ xứng với vai một quan lại cấp thấp về vườn, còn mang theo trong lòng bao điều ẩn ức.

Việc nắn, tạo ra hình dáng, tính cách nhân vật thiếu chân thực, thiếu chất liệu xác thực của đời sống, khiến anh NHT đã thành người thợ không lành nghề, tùy tiện, cẩu thả khi tạc nặn nhân vật của truyện. Lại thêm bà vợ của ông con trai, hết nghề rồi sao lại cho làm bác sĩ phụ sản? À, nhận ra rồi, phải cho là bác sĩ phụ sản thì mới phục vụ được cho chi tiết đắt giá nhất của truyện là lấy “thai nhi chết” mang về nhà nấu cám để phục vụ mấy chú chó Becgie ăn, cho nó khỏe, tiếng sủa của nó lớn, ra oách và làm cho người hàng xóm nể trọng, những tên trộm, kẻ cướp bên ngoài chùn chí nếu muốn chui hoặc xông vào ngôi biệt thự cổ kính, sang trọng kia. Có vậy thì mới đi đến kết luận tồi tệ cho xã hội hồi này được chứ, anh Thiệp nhỉ!?

Đó là chưa nói đến chi tiết khập khiễng là cho ông tướng lờ khờ này nuôi chó Becgie. Nếu ông này là một chính khách, một ông dân chánh cỡ cao, hay một ông cán bộ ngoại giao tầm trung, thì mới có thể sở hữu cái văn hóa nuôi chó kiểng cao cấp, loại chó nhà giàu, chó sang vào thời điểm ấy. Và như vậy thì câu chuyện nuôi chó cảnh nó mới hợp với tâm lý trưởng giả làm sang, kẻ có chút mặt mày học đòi vênh chảnh. Đằng này… (Sau ngày giải phóng miền Nam, cho đến vài năm sau, thực tình là tôi cũng có thấy những ông quan mới hồi nào học lớp hai, lớp ba, hoặc cũng có người một chữ bẻ đôi không biết, phải đi bổ túc cấp I, từng nuôi chó becgie, bỏ nó ngồi trên chiếc Vespa vừa tậu được trong nhà sĩ quan ngụy cải tạo – cả cô vợ xinh đẹp của anh sĩ quan đi cải tạo ấy cũng bị ông lớp ba này tậu – chở đi ăn hủ tiếu uống cà phê. Nhưng ấy là chuyện ở miền Nam phồn vinh Tư bổn, giả tạo, chứ còn trên đất Bắc, trừ các ông đi Tây về (cả giới quý tộc thanh lịch của Hà Nội xưa bấy giờ vẫn chưa dám nuôi chó Becgie – vì sợ truy lý lịch) thì lấy đâu ra một ông thiếu tướng có đủ tiền nuôi chó Becgie – bởi nó ăn một tháng bằng ít nhất hai lần lương cán bộ bậc trung cấp thời này, cho dẫu là người có những ô phiếu Vân Hồ cũng khó mà kham nổi. Vậy mà anh Thiệp vẫn nặn ra được một ông cấp tướng, lại về hưu chứ không phải đương nhiệm, thì quả là một sự hư cấu có phần vượt cấp và quá ư là tùy tiện. Nếu hiểu tự do sáng tác có nghĩa là muốn làm gì, khắc họa nhân vật ra sao cũng được, thì thật là không đúng đắn chút nào. Đó chưa phải là văn học.

Tôi chỉ so sánh tập trung vào chi tiết mà theo tôi là bất nhân nhất, vô sỉ nhất, không một chút nhân văn nào là chi tiết lấy những thai nhi về nấu cháo cho chó ăn. Tôi được biết, có một tín đồ Thiên Chúa giáo một thân một mình đã lặng lẽ đi nhặt gần 200 thi hài thai nhi kém may mắn, không được phúc chào đời đem về chôn cất đàng hoàng trong một vuông nghĩa địa tự ông làm. Cái nghèo ngoài Bắc tuy có thật, thậm chí rất nghèo trong và cả sau chiến tranh năm, bảy năm. Nhưng tôi đoan chắc những người dân bình thường đã không một ai có lương tâm lại làm như thế: bóc lấy thai nhi chết đem về nhà nấu cháo cho chó, lợn, gà ăn. Nhất là đối với một gia đình công dân đẳng cấp như gia đình vị tướng trong truyện của anh Thiệp. Mà nhân vật xử lý các thai nhi bất hạnh lại là một bác sĩ – trí thức Xã hội Chủ nghĩa!? Lại còn mấy nhân vật lưu manh đòi chém cả bố. Một xã hội mà luân lý đạo đức đã xuống tới bùn!

Trong khi đó, tôi đã sống tại Hà Nội gần tám năm, tôi thấy hàng vạn người nghèo, cảnh nghèo, nhưng cái cảnh của ông tướng và những nhân vật xung quanh ông tướng thì tôi chưa từng gặp. Tôi gặp rất nhiều người đi gánh phân từ những nhà xí công cộng. Tại trường Nguyễn Du tôi học, sáng thức dậy chạy ra cổng thì đã thấy mấy bác mấy chị xếp đòn gánh đứng chờ bảo vệ mở cửa. Đó là việc xấu đấy ư? Không, đó là việc đẹp, việc cao cả hơn lũ học trò chúng tôi và nhà văn NHT rất nhiều. Các bác, các chị xúc phân dọn sạch nhà xí, đáp ứng nhu cầu vệ sinh của trường, lại mang phân về ủ, sau đó sử dụng cho việc trồng rau màu hoặc bón lúa. Tôi ăn hàng tấn rau muống, rau cải, cà chua, bầu bí suốt những năm ở Bắc mà không hề có cảm giác thấp hèn, hạ tiện, hay dơ bẩn gì. Và chính cái hình ảnh ấy đã cho tôi một triết lý sống mà tôi yêu thích: Người nông dân bình thường, không học Đại học Sử như anh Thiệp, hay học trường Viết Văn Nguyễn Du như tôi, không học Trung cấp hay Cao cấp lý luận chính trị, không phải là du học sinh hay Thạc sĩ, Tiến sĩ, nhưng họ biết đi vào nơi dơ bẩn nhất, hôi thối nhất, hiểm trở nhất mà những người thanh sạch phong nhã được giáo dục nhiều không dám bước vào, hầu mang cái vật hôi thối đến nguy hiểm ấy đi xa để hội trường chúng tôi học, nhà ăn chúng tôi ngồi ăn không bị ảnh hưởng bởi sự ô uế; ngoài ra còn dang thân chịu sự hành hạ của mùi hôi thối để biến cái vật không có mấy phẩm giá kia thành vật có ích cho ruộng đồng, nương rẫy. Lạc hậu ư? Bẩn thỉu ư? Bạn không thể bứng, hoặc bưng cái xã hội lạc hậu do ngàn năm phong kiến, trăm năm đô hộ đế quốc thực dân để lại theo ý muốn của một đôi người được. Không chỉ có thế. Lại thêm bốn cuộc chiến tranh đến tàn kiệt: đánh Pháp, đuổi Mỹ, diệt Pol Pot, chiến tranh với người bạn phương Bắc khổng lồ. Rồi tiếp đó là nghèo đói do cấm vận của Mỹ, bị ép bức đến cùng cực do người anh em Trung Quốc ba bữa bạn, bốn bảy bữa thù. Và bao lý do chủ quan, khách quan khác nữa…

Chúng ta, hay cả dân tộc Việt Nam không thể nhất thời di dời ngay cái xã hội đói khổ, cơ cực, lạc hậu nghèo nàn để thay thế bằng một xã hội thiên đường trong tức khắc được. Cũng không vứt đi đâu, hoặc mang vác nó đến chỗ nào khác cao sang hơn trên trái đất này, bởi dù lạc hậu nghèo nàn thì đất nước Việt Nam khốn khó bộn bề vẫn là Tổ Quốc của chúng ta!? Năm 1972-1980, chỉ 8 năm sau cái ngày Nixon tuyên bố cho miền Bắc Việt Nam đi vào thời kỳ đồ đá, 5 năm từ ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, tính đến hôm tôi cầm cái truyện ngắn của NHT trên tay để đọc. Một xã hội mà giữa lòng Thủ đô dầy những căn nhà cấp 4, cấp 5 hoặc hơn thế nữa. Sống để được làm người bình thường nghèo khổ thôi trên cái thế giới của loài người, đối với đồng bào miền Bắc lúc bấy giờ đã là điều quá khó, quá gian nan, và cao thượng lắm rồi, nói chi đến cuộc sống ấm no đầy đủ. Nếu không phải là những con người thô sơ, mộc mạc, cần cù, mệt nhọc, nghèo phải chịu, khổ phải gánh, hạt gạo chia ba ấy thì lấy ai để thắng Mỹ, lấy ai để thống nhất nước nhà và góp phần giải phóng Đông Dương thoát khỏi sự nô dịch của Chủ nghĩa đế quốc – thực dân, lấy ai để diệt Pol Pot, đuổi hết giặc Tàu?

Bạn phải quá độ lên xã hội văn minh nằm trong mơ tưởng bằng cái cơ sở hạ tầng như vậy, nền kinh tế ở mức thấp đến ảm đạm như vậy, tính ra thì thu nhập của người dân ngày ấy chỉ 20 dollar một tháng, thậm chí còn thấp hơn. Và tất nhiên là người Việt Nam ai cũng khổ, trừ một số rất ít có điều kiện để xa hoa, còn thì tất cả con Hồng cháu Lạc đều là những anh hùng theo nghĩa cao đẹp nhất trong hoàn cảnh phải tồn tại như vậy, sống như vậy, ngẩng cao đầu làm người với bốn biển năm châu như vậy! Nghĩa là thời cơ cực ấy, rất nhiều người, cả những người đi gánh phân kia đều đã dốc tâm làm hết sức mình để cùng đất nước, gánh đất nước trên vai mà đi, đi lên dốc, để vượt qua cái dốc lạc hậu đói nghèo khổng lồ đến cam nghiệt đó. Cũng giống như vậy, ngay khi đó, hay trước đó mười năm, hai mươi năm, hàng chục triệu người hoặc nhiều hơn đã đi vào chiến tranh, dấn thân vào đạn bom chết chóc để tìm lấy hòa bình, độc lập và tự do cho dân tộc. Người cao thượng đi vào chỗ hiểm để tìm ra vật quý cho đời. Hàng bao nhiêu triệu người Việt Nam đã ngã xuống cho “cuộc ra đi” ấy. Và hòa bình độc lập mới thành vật quý nhất trên đời mà các con người cao cả ấy mang về cho chúng ta hôm nay, để chúng ta ung dung ngồi học, dạy, sáng tác văn chương, hay tận hưởng những phút giây tơ tình hạnh phúc.

Muốn dóng một tiếng chuông cũng cần có hòa bình. Và trong tiếng chuông ấy vẫn có máu của người đã hy sinh cho sự bình yên và tự do của dân tộc. Người lặn xuống biển để tìm ngọc trai. Người đi vào rừng sâu vạch từng thân cây mục để tìm trầm hương thắp cho thần Phật. Và nhiều người nữa đi ngoài biên cương hải đảo để mang về cho chúng ta sự bình yên trên những dãy phố nghèo và ruộng đồng rẫy nương chân bùn tay lấm. Cái đó không là nhân bản, nhân văn, văn hóa thì thử hỏi phải gọi cái tinh thần, cái hiện tượng thiêng liêng cao cả đó là gì cho đúng với phẩm hạnh của người Việt Nam và Tổ Quốc Việt Nam?

Trở lại với chuyện những người đàn bà gánh phân trước cổng trường mỗi sáng, tôi thấy yêu quý, hãnh diện và tự hào về họ: Họ đi vào chỗ thối để tìm ra, làm ra cái thơm, cái sạch, cái ngon, cái lành cho xã hội, nhân quần. Xã hội nhân quần biết ơn họ. Cả anh tín đồ Thiên Chúa giáo kia, anh đi vào chỗ đau đớn, bi nghiệt để làm công việc thánh thiện mà nhiều người lẽ ra phải làm. Tôi và dĩ nhiên là có rất nhiều người vô cùng ngưỡng mộ, yêu quý và cảm phục tấm gương cao đẹp đó. Còn anh Thiệp và các nhà văn nhà thơ khác nữa, tại sao anh và các anh đi vào chỗ hôi thối hung nghiệt (chỉ do tưởng tượng) ấy rồi tàng hình không trở ra, hoặc trở ra, nhưng lại lén lút mang cái vật lấy được từ chỗ đen đúa tối tăm kia về nhà làm mâm cỗ cho mình rồi thưởng thức một mình, hoặc rộng rãi thì mời người đồng hội đồng thuyền đến nhà cùng nhấm nháp.

Không nhả ngọc phun châu được thì ít ra anh Thiệp và các anh cũng biết tạo ra những vật phẩm, những món quà nho nhỏ bằng chữ nghĩa bình thường nhất có thể cho bữa ăn tinh thần còn thiếu thốn của người dân hay xã hội bấy giờ chứ? Đằng này, các anh lại làm cái công việc hèn hạ, mang các chi tiết, hình ảnh săn nhặt hoặc tưởng tượng được rồi ráp hợp lại và vu đặt cho cuộc sống, chế độ, sau đó chui vào bóng tối để nhồi trộn, nấu nướng, bày ra một cách tráo trá, cẩu thả, dung tục, vội vàng như những kẻ phi nghĩa hung man nhằm phục vụ riêng cho cơn khát đói, thèm thụa hầu thỏa mãn thói xấu xa hám kỷ của mình. Không còn vang danh được bằng cách nào khác, ngoài cách dựng truyện xấu đổ lên đầu người khác, rồi hô toáng lên “Sáng tạo! Hiếm có! Chuyện lạ chưa từng! Đây mới đích thực là văn chương!”. Hình tượng lên một chút, các anh vừa ăn, lại vừa cầm cái vật mình ăn lên với thái độ cười cợt, bêu riếu (giả dụ như cầm con chuột, con cóc nướng đưa lên trước mặt, trước mồm, vừa ngấu nghiến vừa khoái trá nhìn nhau trêu nghịch: tao hóa kiếp cho mầy, hãy đi đầu thai vào kiếp khác cho được bảnh thân hơn nhé). Thật là đểu giả, vừa được bữa lại vừa muốn dành hết lấy phận lấy danh về việc mình làm “Ồ, thật là món ngon vật lạ, thật là một bữa đánh chén tuyệt vời mà lũ viết lách chính chuyên chưa bao giờ có được!”. Ấy, nhưng thực quả không phải chuột, cóc, nhái, hay đuông, mà “món ngon” của anh NHT và đám nhà văn, nhà thơ, đám thợ săn cùng nhóm xốc bát đĩa lần này chính là món “thai nhi nấu lẩu!”.

 “Tướng về hưu” thực chất là món thai nhi nấu lẩu không kém không hơn. Thật đúng với quy trình, công nghệ nấu bếp, làm văn, anh Thiệp và anh Thiều ạ. Cứ mang rổ nguyên liệu, gia vị chế biến đến bên bếp. Anh Thiệp trong tư cách nhà văn – đầu bếp, thợ nấu, người có những thao tác thuần thục biến các thứ đã săn nhặt được kia thành những món ăn khoái khẩu cho mình cùng khách quý được mời và khoái trá khen nhau, gật gù, thỏa thuê cho bữa tiệc. Đến lượt anh Thiều thì anh tự lấy “Tướng về hưu”, “Phẩm tiết” và nhiều món tương tự nấu lên thành bữa ăn tinh thần khác cho đồng bọn Hậu hiện đại Chủ nghĩa thưởng thức mâm tiệc đặc sản “Điếu văn Nguyễn Huy Thiệp” để túy lúy cùng nhau, biến đám ma thành một cuộc nhậu tinh thần đầy hứng thú và thật là thi vị. Còn cái công việc thanh cao, cái đạo lý của người phục vụ cho bữa ăn tinh thần đạm bạc của dân lành mà người đời cần có ở nhà văn bị anh Thiệp, anh Thiều và đồng bọn vứt đi. Thay vì là người đầy tớ tận tụy tìm ra cái đẹp, cái đáng yêu đáp ứng cho khát vọng cao đẹp của con người, anh Thiệp, anh Thiều (dù chỉ là người nhại lại) lại cao ngạo tuyên rằng: Nhà văn là người đi tìm đạo cho dân! Dân cần gì cái đạo tởm lợm này của các anh? Thật là trâng tráo!…

Các nhà lý luận – phê bình, nhà nghiên cứu mà tôi đã đọc, xếp anh Thiệp vào nhóm 4-5 tác giả tiêu biểu cho Hậu hiện đại. Kể ra thì cũng vinh hạnh cho anh đấy. Nhưng cũng bắt đầu từ đây, xin hỏi, chẳng lẽ vì lẽ ấy mà anh NHT lại đưa cái món thai nhi chết do bác sĩ phụ khoa mang về cho anh làm ra món lẩu đơm lên bữa tiệc bồi bổ tâm hồn cho anh và các nhà Hậu hiện đại khác sao? Ở đây anh đừng tranh luận rằng: chuyện này là chuyện của nhân vật, chứ không phải của nhà văn. Nói vậy thì anh biết sử nhiều hơn biết văn rồi! Tất cả đều của anh: chủ thể, ông chủ, không nhét cái món lẩu thai nhi ấy vào ngực áo ai được, trừ anh và những tín đồ Hậu hiện đại nhà anh. Và các anh xúm nhau khen ngon. Các anh vỗ tay cổ vũ, tự sướng với nhau, tự tạc tượng xây đền đài, lăng tẩm cho nhau rồi kéo nhau thờ phượng, sau đó bắt ép quần chúng sinh linh thờ phượng, khói nhang. Tôi nhớ không nhầm là đã có lúc truyện “Tướng về hưu” bị thu hồi hay ngưng, cấm phát hành gì đó. Riêng chuyện này – nếu có – thì tôi đồng cảm với anh Thiệp – bởi nó như tai nạn của nghề văn và cũng là bài học của nhà văn.

Phê phán cái cũ, cái xiềng trói tự do con người, những tệ trạng quan lại phong kiến còn tồn lưu trong con người và xã hội thì có nhiều cách, nhưng cách nào thì cách, tiêu chuẩn cao nhất vẫn phải là nhân văn – và nếu thừa nhận xã hội, chế độ này là Cách mạng thì phải có thêm yếu tố Cách mạng. Tôi thấy cách phê phán, đánh đổ cái cũ của anh Thiệp hoàn toàn không cao nhã như Đống rác cũ của Nguyễn Công Hoan nhà văn tiền bối của chúng ta. Hay ngay cả nhân vật Thị Nở, Chí Phèo của Nam Cao dù viết thời Hiện thực phê phán, cách đây rất xa, nhưng cả hai đều đẫm chất nhân văn với cách xử lý của nhà văn, nào thấy cái mùi tởm lợm như “Tướng về hưu” độc nhất vô nhị của anh Thiệp. Đi vào rác để tạo ra sự không rác, sự sạch sẽ mới là cao nhã vậy. Còn đi vào rác mà mang rác xả ra đường hoặc xả trong nhà mình, thiết nghĩ đều không phải là một Đạo. Anh Thiệp phải học những người lao động đi gánh phân mà tôi đã nhắc tới, bởi họ là những người cao thượng, cái hôi thối thì nhận về mình, con cái sạch sẽ thơm ngọt thì dành cho đời. Ấy mới thật sự là Đạo, là Luân lý tốt đẹp mà xã hội ta cần có, thế gian cần có, anh Thiệp, anh Thiều và các anh Hậu hiện đại cần nên có. Rất tiếc là các anh đã bỏ đi, chỉ ôm khư khư cái báu vật Hậu hiện đại Chủ nghĩa về mình, rồi tự làm pháp sư cho nhau, tự vẽ thần, tạc thánh cho nhau như thời tiền văn minh tôn giáo.

Còn truyện cũng nổi tiếng nữa của anh Nguyễn Huy Thiệp, tôi đã đọc là truyện có tên “Phẩm tiết”. Hồi ấy dường như truyện này còn nhiều đoạn, nhiều chi tiết tục, đọc rờn rợn. Cả húp, cả nút, cả nhai, nuốt cái bã của tình dục, đọc mà gớm ghiếc, tanh tưởi. Truyện này tôi thấy về mặt nghệ thuật thì tốt hơn truyện “Tướng về hưu”. Nhưng các nhân vật đều là cái loa của anh Thiệp. Anh thành công ở tính chất sử của truyện này. Các nhà phê bình xúm nhau khen, lõ mắt nhìn nhau tán tụng, tôi thấy hơi quá, giống như mượn cái truyện của NHT để giải tỏa lòng mình, khao khát được thể hiện cái vốn tri thức tích lũy nhiều năm không xài được của mình, nhiều hơn là dựa trên giá trị thực của truyện. Một cái nghĩa sờ sờ hiện ra đó mà các anh không nhìn thấy: Chỉ cần một người phụ nữ kinh thành có cái báu vật trời cho, biết khôn ngoan mỹ vị một chút là đủ để làm tan tác cuộc đời, hạ bệ sau trước hay cùng lúc cả hai ông vua tưởng là bậc nhất xứ Đàng Trong!

Cái cảm hứng chủ đạo từ đầu đến cuối của truyện là ở chỗ ấy, thì không hoặc chưa một nhà lý luận nào nhìn thấy, hay thấy mà không ai nói hết, sợ làm nhợt nhạt rồi thòi ra, trào ra cái phần luôn luốc nhớt nhúa của anh Thiệp nhét sâu bên trong cái “bánh” mà anh Thiệp và các anh ấy cho là tác phẩm tuyệt trần này. Đây chính là chỗ thâm tuệ của anh Thiệp – cái thâm của người học văn thì ít, học sử thì nhiều, học các mánh lới thủ đoạn của vua chúa, những kẻ khôn lõi, rắp tâm không ít trong sử, lại thêm cái tính láu cá, hiềm hận, ma quỷ nghi ngút trong hồn. Các ông vua trên tay anh Thiệp khi trở thành nhân vật, họ như những con rối, anh Thiệp điều khiển thế nào thì ra thế ấy, khỉ ra khỉ, chồn lại ra chồn, cóc nhái ra cóc nhái, nòng nọc ra nòng nọc. Giống như một sự trả thù của mối thù từ kiếp trước. Có lẽ kiếp trước anh Thiệp từng là vua, hay con vua, mà bị soán ngôi, kiếp này phải đòi lại theo luật vay trả vậy. Nhưng vì chưa hết chu kỳ luân hồi bởi nghiệp chướng còn chưa dứt, anh Thiệp không làm vua trong hiện thực được, đành phải mượn người phụ nữ trinh trắng, khôn ngoan làm công cụ trả thù, giành lấy ngai vị “làm vua” trong văn học nửa cuối thế kỷ XX.

Tôi thử đặt câu hỏi: Đó là phẩm tiết của người con gái, người đàn bà kinh thành, hay phẩm hạnh của văn hóa Bắc Hà phong kiến muộn thời Trịnh Lê, hay chính là phẩm hạnh của NHT? Cũng là một cái truyện với tính nhân văn rất kém. Tôi không có thời gian dành đọc thêm hay để nhớ lại truyện của anh Thiệp, hầu làm người luận bình vẹn vẽ. Ngụ ý của tôi, sẵn việc các nhà lý luận, nghiên cứu phong anh là đại cao thủ trong tông phái Hậu hiện đại võ lâm mà vịnh vào để nói thêm, bàn thêm đôi chút về Chủ nghĩa Hậu hiện đại ở Việt Nam cho thuận lẽ đó thôi. Xin lỗi hương hồn anh Thiệp! Dẫu sao thì nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (trong lễ truy điệu anh ngày anh tạ thế) cũng đã tuyên dương anh rồi: người độc nhất ngồi trên chiếc ngai vàng thế giới truyện ngắn Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX! Xin chúc mừng anh!

Tôi cố nhớ lại, trong đám tang anh Thiệp, tôi thấy hình ảnh tôn kính và trang nghiêm của anh Thiều đứng trước quan tài và anh linh của anh NHT với một giọng đọc thật trầm ấm, thật bi hùng, giàu cảm lụy. Và sau đó tôi có tìm để đọc qua bằng văn bản bài điếu văn của anh Nguyễn Quang Thiều vài lần nữa. Thật xúc động và cao siêu, xứng với anh Thiệp một nhà văn tài năng lớn, đồng thời cũng xứng với vai trò Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam của anh Thiều.

Và cũng xin thành thật nói rằng, từ bài diễn văn đọc khi kết thúc Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam, trong đó có cụm từ nói về sự “chuyển giao thế hệ”, đến việc anh long trọng đọc điếu văn trong lẽ truy điệu anh NHT, cộng với việc anh bố trí anh Inrasara làm Chủ tịch Hội đồng Thơ – người công khai vỗ ngực nhân danh là người đại diện của Chủ nghĩa Hậu hiện đại, cả việc các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đều xếp anh NHT vào danh sách hàng đầu những nhà văn Hậu hiện đại, tôi mới buộc phải có vài lời với anh, anh Thiều nhé.

Anh có thể đọc điếu văn cho tất cả nhà văn, nhà thơ Việt Nam khi họ từ trần, bởi đó là đạo lý (trừ tôi – tôi không có ý định được chết một cách trang trọng và lẫm liệt như vậy đâu. Tôi đã dặn con trai tôi là không cho bất kỳ một người thân nào hay về việc tôi chết, kể cả ruột thịt gia đình, không cần vào nghĩa trang dù có tiêu chuẩn – bởi tôi có một triết lý về cái chết của những chiến sĩ chết ở chiến trường ngày xưa chưa tìm được xác, nghĩa là cái chết vô danh và lành tính, nhẹ nhàng như cây như đất, hay như cỏ vậy).

Còn lại, tôi chỉ gửi đến anh một câu: Hãy vì sự nghiệp chung của Đất nước, Nhân dân mà quản lý và sáng tạo, nếu thấy có sai thì sửa, thấy đúng thì làm, không đắp lũy xây thành, biến Hội Nhà văn Việt Nam thành căn cứ địa, thành chi nhánh hay tiền đồn của Chủ nghĩa Hậu hiện đại mang màu sắc chính trị vô văn hóa ở cái xứ sở hình cong chữ S này…

 

Nguồn: Văn Nghệ TPHCM số 659, ra ngày 14/10/2021