Sau khi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư chuyển sang làm thơ bán chạy như tôm tươi, thì nhà văn Phạm Duy Nghĩa vừa phát hành tập thơ “Cho vĩnh cửu mùa thu”. Các nhà thơ hãy cảnh giác, phải hết sức cảnh giác. Bởi lẽ, biết đâu tương lai công chúng sẽ nhắc nhau “nhà thơ Phạm Duy Nghĩa lúc khởi nghiệp cũng từng viết truyện ngắn”.

 

NHÀ VĂN PHẠM DUY NGHĨA VÀ LỐI TẮT VÀO THƠ

 

(Đọc “Cho vĩnh cửu mùa thu”, NXB Văn học - 2021)

 

TRANG THỤY


Trong làng văn, Phạm Duy Nghĩa được biết đến như một cây viết truyện ngắn đã có nhiều thành tựu với bề dày hơn 20 năm sáng tác. Từ năm 2002 đến nay, anh đã in 4 tuyền tập, trong đó, truyện “Cơn mưa hoa mận trắng” từng dành giải Nhất cuộc thi truyện ngắn của Tuần báo Văn nghệ 2003 – 2004. Thế nhưng, ít người biết còn có một Phạm Duy Nghĩa lặng lẽ làm thơ, từ những năm tháng sinh viên cho đến khi thành một thầy giáo ở vùng cao. Tháng 4/2021 vừa qua, anh đã cho xuất bản tuyển thơ đầu tay của mình với tên gọi Cho vĩnh cửu mùa thu, gồm 30 bài thơ.

 

1. 

Như lời tác giả tự bạch trong phần mở đầu thi tập, những bài thơ này được in ra như để lưu giữ lại chút “ký ức dịu dàng” cách đây đã 20 năm với không ít “những non xanh, vụng dại”. Và hầu hết những bài thơ đều được viết trong năm 2000. Thế nhưng, sau khi đọc hết 30 bài thơ, tôi nhận ra một phẩm chất thi sĩ đích thực của Phạm Duy Nghĩa với hồn thơ tươi sáng, trong ngần đã mang đến cho độc giả một hơi thở mát lành như sương mai, như những cơn mưa, giọt nắng ở vùng cao mà anh từng đi qua…

Tình yêu trong thơ Phạm Duy Nghĩa hầu hết là những ký ức. Bao kỷ niệm dội về lúc xa lúc gần, mang nhiều nuối tiếc. Nhưng ngay khi tất cả những mối tình đều tan vỡ, dang dở thì trong thơ anh, sự dang dở đó vẫn đẹp lạ lùng:

Ngày tôi đi dằng dặc triền sông

Hoa cải tiễn, hoa cải cười, hoa cải khóc

Nghe đắng ngọt phấn hoa vàng trên tóc

Tuổi thơ xưa trinh trắng mãi xa rồi

(Nỗi buồn hoa cải).

Thi sĩ cố gắng nắm bắt một hư ảo trong tình yêu nay đã không còn, cũng có thể mối tình ấy chỉ là một mơ ước để con người mãi ngóng chờ, nhưng không khi nào tắt một niềm tin. Những giãi bày ấy làm cho chúng ta xúc động:

Đêm sa mạc với nhiều ảo ảnh

em là sương xanh mộng trăng ngần

bao giờ hỡi nỗi buồn ngưng kết

chảy ngọt ngào tan tuyết lạnh mùa xuân?

Anh rực lửa. Em mong manh hạt nước

tan nhòa mây. Lại trống trải sinh thành

rạo rực chiều nay vườn trở ấm

Phải em về

lặng lẽ

tìm anh…

(Ảo ảnh).

 

2. 

Có một chùm những bài thơ như tái hiện những năm tháng sống và làm việc tại vùng cao. Có những bài thơ 5 chữ thật trong lành, hồn hậu với đất và người. Có lẽ đó là những tháng năm rực rỡ không thể nào quên trong lòng tác giả:

Ơi em gái Hmông

tối nay còn đến học?

Hương quả thơm quện tóc

bay khắp rừng mênh mang

Bước theo ngựa vội vàng

Em ngoái nhìn, e ấp

Hương quả hay hương đất

Hồn cây hay hồn người

(Mùa thảo quả).

Những câu thơ cho ta thấy yêu thêm nghề dạy học, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mỗi ngày:

Nhớ cô giảng hôm nào

“nước Việt mình đẹp mãi

đủ bốn mùa cây trái”

em thầm ước bên vườn

Xin xuân hạ chút hương

Điểm sắc vàng thu nữa

sớm này em gõ cửa

tặng cô cả bốn mùa

(Bốn mùa).

Thăm lại thầy giáo cũ, Phạm Duy Nghĩa cũng viết được những câu thơ thật cảm động về ân tình của người thầy. Không chỉ vì những năm tháng đã được thầy truyền thụ kiến thức mà còn vì người thầy vẫn luôn dõi theo tất cả những bước đường của học trò:

Lối xa về thầy lại đưa chân

Lời thủ thỉ sưởi quãng đường ấm áp

Thơ dần hiện giữa nền đêm đen bạc

Man mác hồn cốm xanh

(Với thầy, đêm trở gió).

Tự thừa nhận mình thuộc một thế hệ lớn lên “trong từ trường của văn hóa, văn học Xô – viết”, Phạm Duy Nghĩa có một số bài thơ lấy cảm hứng từ các tác phẩm văn học Nga hoặc các nghệ sĩ Nga. Đó là các bài: Tâm hồn (Đọc Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy), Trước Levitan, Lá thư từ Ukraine, Tiếng còi tàu đêm (theo truyện Cây phong non trùm khăn đỏ của Aitmatov). Tôi đã gặp ở đây những câu thơ thật đẹp:

Những người vợ âm thầm khó nhọc

Nghiêng giọt sữa bò nuôi sống cả nước Nga

(Trước Levitan).

Trắng cơn mơ ánh chớp trên đồng

Mùi rơm ngái và mùi hoai đầm phá

mối tình chín suốt mùa hè óng ả

đêm mơ màng xanh ngát bụi trăng ngân

(Lá thư từ Ukraine).

Không có một tâm hồn thánh thiện và chân thành, người ta không thể viết được những câu thơ như thế. Dĩ nhiên thơ Phạm Duy Nghĩa còn có cả chất lãng tử bát ngát phiêu du, được thể hiện khá kín đáo:

Nay nhớ thương anh gọi thầm “em gái”

Xin đốt thư này, trao gió, gửi tìm em

(Kỷ niệm);

Lá biết đời mình thoáng nhẹ như mơ

Kìa sợi gió, thung sâu xanh thẳm nhắc

thầm lặng thế lá ơi dù khoảnh khắc

thêm chút vàng cho vĩnh cửu mùa thu

(Chiếc lá).

Độc giả còn có thể tìm được sự đồng cảm với Phạm Duy Nghĩa trong những câu thơ viết về mẹ. Thơ về mẹ của Phạm Duy Nghĩa rút ngắn khoảng cách không gian và cho ta được ngược dòng thời gian tìm về với tuổi thơ:

Cuối chiều đông

Mẹ tôi đốt lá

Khói xanh mơ nhòa nhạt nhuốm làng

Hư ảo quá

Chiều êm đềm cổ tích

Đưa nhớ về xa vời mênh mang

(Lâu đài cát);

Mẹ thương thằng bất hiếu

Suốt một đời đi hoang

Xin hoa chở mùa sang

Thay tôi mừng tuổi mẹ

Hương hoa thoáng ngậm ngùi

Ấm lại thời son trẻ

Xin hoa vàng rơi khẽ

trên mái đầu mẹ tôi

hắt hiu chiều gió buốt

khóc ngày xưa xa rồi

(Vườn mẹ).

Dù viết văn hay làm thơ, theo tôi, Phạm Duy Nghĩa có một ý thức mãnh liệt về sáng tạo. Bài thơ Cảm hứng trong tập với lời đề từ của Paustovsky: “Ý sáng tác như một tia chớp” có thể coi là một tuyên ngôn của anh:

Giữa mênh mông hỗn tạp ngôn từ

Ý tưởng hiện khi nào chẳng rõ

Giọt lân tinh lúc mờ lúc tỏ

Khi chói lòa xanh ngát vệt sao băng

Trong mơ hồ

văng vẳng thanh âm

Câu chữ ló

như trái dần đỏ nắng

triệu tế bào căng thẳng

vũ trụ nhòa trôi rơi

Le lói rừng đêm đốm lửa trêu ngươi

luôn trước mặt đi hoài mà chẳng đến

chuyện muôn thuở trốn tìm nhọc mệt

trong vòng tay ma quái của ngôn từ.

Tôi cho rằng, nếu tiếp tục làm thơ, Phạm Duy Nghĩa sẽ tạo ra một giọng điệu và vị trí riêng của mình. Thơ Phạm Duy Nghĩa mang phong vị cổ điển, chinh phục người đọc bằng cảm xúc chân thành, tự nhiên, trong sáng, có đủ chiêm nghiệm của một người từng trải, có sự nghiêm cẩn của một ông giáo và cả chất lãng tử của một thi sĩ phiêu bạt. Các hình ảnh, biểu tượng trong thơ Phạm Duy Nghĩa mang tính chuẩn mực và dễ cảm nhận với số đông độc giả. Thơ được chú trọng cả về vần và nhịp điệu, từ nhạc tính mỗi khổ thơ cho đến tổng thể toàn bài, dù bài thơ được viết theo hình thức tự do hay sự đều đặn về số chữ của mỗi dòng thơ.

 


3.

Có một bài thơ đặc biệt của anh mà tôi muốn dùng để khép lại bài viết nhỏ này. Đó là bài Nửa đêm thăm căn nhà cũ. Nếu như trong khá nhiều bài của tập, hiện lên chất Nga – Xô viết rất đậm đặc, từ đề tài cho đến các hình ảnh, điển tích, câu chuyện; thì bài Nửa đêm thăm căn nhà cũ lại cho ta đậm một cảm thức phương Đông:

Trăng soi lối cũ căn nhà cũ

mười năm tìm lại tiếng đàn

ngơ ngẩn nỗi niềm Từ Thức

tiêu điều gió lộng vườn hoang

Có phải thi nhân sầu thế thái

Hoa thì hay héo cỏ thường tươi

Thuyền đã dời neo đàn đứt tiếng

Đâu bến trong lành đâu gió khơi?

Hay đã lầu hoa xanh tiếng nhạc

Câu thơ im ngủ dưới chân giày

Trăng về lủi thủi nơi triền bãi

Ai khác xưa rồi ai có hay?

Tán bàng cuối nhuộm đông đỏ tía

Âm thầm trút lửa vào đêm

Nhà xưa lá phủ im lìm

Chỉ còn trăng đọng trắng thềm bâng khuâng…

Cảnh cũ chốn xưa người xa vắng vốn là một thi đề quen thuộc trong văn chương cổ điển, từ Lý Bạch của đời Đường đã có những nỗi niềm như thế:

Em còn ở đầy nhà hoa ngát

Em đi rồi ngơ ngác giường xưa

(Ký viễn, Nguyễn Bính dịch).

Đến thời hiện đại, nhà thơ Vũ Quần Phương cũng có những xúc cảm rưng rưng với căn nhà cũ:

Cho tôi đứng chút thôi trước căn nhà cũ ấy

Sáng mai thôi nó hóa thân rồi

Cho tôi nghe tiếng rì rầm của bức tường long lở

Của mái ngói rêu phong

Của ấu thơ bàn tay đầy mực tím

Tôi từ giã bao lần những áo quần mặc chật

Những nỗi buồn cho tôi lớn lên

Nhưng lần này trước căn nhà cũ nát

Trái tim tôi thành viên gạch trên tường

(Căn nhà xưa).

Nhưng điểm độc đáo ở bài thơ của Phạm Duy Nghĩa, theo tôi, không phải thi sĩ nhớ nhung và tìm kiếm một tha nhân mà con người ấy đang đi tìm lại chính bản thân mình, tìm lại những khát vọng và nỗi niềm một thuở. Nào là ước mơ Từ Thức xa vời, nào là đau đáu thế thời qua câu thơ Nguyễn Trãi (Hoa thường hay héo cỏ thường tươi). Toàn bài tràn ngập những câu hỏi tu từ, nhạc tính réo rắt uyển chuyển dẫn dụ người đọc với những câu thơ gây nhiều dư ba, độc đáo trong diễn đạt:

Hay đã lầu hoa xanh tiếng nhạc

Câu thơ im ngủ dưới chân giày

Trăng về lủi thủi nơi triền bãi

Ai khác xưa rồi ai có hay?

Và rồi tác giả bất ngờ khép lại thi phẩm bằng một câu lục bát mềm mại, mênh mang:

Nhà xưa lá phủ im lìm

Chỉ còn trăng đọng trắng thềm bâng khuâng…

Cái hay cái đẹp của bài thơ đã chạm vào mạch cổ điển trong thi ca dân tộc và có thể xem đây là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của tập thơ này.

Phạm Duy Nghĩa khá khiêm nhường khi nhận mình là một người văn xuôi làm thơ. Anh cũng không định bước tiếp với thơ mà chỉ coi thi tập này là một kỷ niệm. Nhưng theo tôi, thơ hay không cần phải viết nhiều, bởi như người xưa đã nói: quý hồ tinh bất quý hồ đa. Trong một lần dạo chơi ngang qua khu vườn thơ, Phạm Duy Nghĩa đã nán lại ít lâu, tặng cho đời một chùm hoa ngát hương nhiều màu sắc. Chúng ta còn đòi hỏi gì hơn thế nữa?!

 

 

Nguồn: Văn Nghệ Công An