Tác giả suy nghĩ về một bài báo trên National Review bởi đồng nghiệp của mình,- một người tham gia vào những cuộc chiến tranh lớn của Hoa Kỳ trong thế kỷ 20. Tại sao Hoa Kỳ, quốc gia hùng mạnh nhất về quân sự trên thế giới, lại bị trục xuất khỏi Iraq và mất vị trí ở Afghanistan?

 

SAU THẤT BẠI TẠI VIỆT NAM, VÌ SAO MỸ KHÔNG CÒN CHIẾN THẮNG TRONG CÁC CUỘC CHIẾN TRANH?

Trong một bài báo trên tạp chí “National Review có tựa đề Ba cuộc chiến tranh không có một lần nào thắng- Vì sao? đồng nghiệp cũ của tôi tại Lầu Năm Góc và Đại học Hải quân- Bing West đã cho thấy một cách thuyết phục lý do tại sao Hoa Kỳ, với tư cách là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới, đã thua  ba cuộc chiến tranh lớn trong nửa thế kỷ qua: Việt Nam, Iraq và Afghanistan. Bing West cho rằng thất bại là do ba lý do: hoạt động của các nhà quân sự, hoạt động của các chính trị gia và tâm trạng xã hội. Ông lưu ý chính xác rằng nguyên nhân chính dẫn đến thất bại là ở các chính trị gia.

Tôi quen thuộc chút ít với từng cuộc xung đột này, bởi vì tôi đã từng phục vụ ở Việt Nam, ba lần ở Iraq và một lần ở Afghanistan. Nhưng tất cả những điều này không thể so sánh được với kinh nghiệm của Bing, nhân vật tôi coi là một trong những người dũng cảm nhất mà tôi biết. Tuy nhiên, đối với tôi, dường như ông ấy đã vẽ ra một bức tranh đôi khi không đầy đủ và sai lệch về lý do thất bại của chúng ta trong ba cuộc chiến.

 Ví dụ, khi phân tích thảm họa Việt Nam, ông ấy bỏ qua thực tế là chúng ta đã chiến đấu trong cuộc chiến này  một cái cớ tự bịa ra quá xa thực tế. Năm 1964, Tổng thống Johnson được Quốc hội cho phép tiến hành một cuộc leo thang quân sự quy mô lớn ở Việt Nam để đáp trả cuộc tấn công được cho là của Bắc Việt nhằm vào một tàu Mỹ hoạt động trên Vịnh Bắc Bộ. Nhưng ngay cả trước cuộc điều tra của Quốc hội, đối với bất kỳ sĩ quan hải quân dày dạn kinh nghiệm nào cũng đều hiểu rõ rằng những cáo buộc ấy của chính quyền là dối trá. Tôi nhớ lời một chỉ huy của tôi, người đã hoàn thành  các nhiệm vụ chiến đấu trong Thế chiến II và Chiến tranh Triều Tiên. Ông ấy nói với chúng tôi rằng không thể một cuộc tấn công nào như được trình trong bản điều trần tại Quốc hội cả. Phó Đô đốc James Stockdale, người cùng với Bing là cấp trên của chúng tôi tại trường cao đẳng quân sự cũng là người đã nhận được Huân chương Danh dự vì lòng dũng cảm trong Chiến tranh Việt Nam, nơi ông bị bắt làm tù binh- đã khẳng định với chúng tôi điều nói trên. Vào thời điểm đó, Jemes Stockdale ở khu vực Vịnh Bắc Bộ. Điều tương tự cũng được khẳng định bởi một sĩ quan hải quân, người đã thuyết phục Thượng nghị sĩ Dân chủ bang Oregon Wayne Morris bỏ phiếu chống lại Nghị quyết Bắc Kỳ (chỉ có hai thượng nghị sĩ như vậy, và cả hai đều thua trong cuộc bầu cử tiếp theo). Khi sự dối trá như vậy công luận biết đến, tình cảm chống chiến tranh gia tăng trong xã hội Mỹ.

Còn một lý do khác khiến chúng ta thất bại ở Việt Nam là ở chỗ, nói chung ra không thể thắng được trong cuộc chiến tranh này. Bing khẳng định rằng chúng ta phải chịu thất bại trong cuộc chiến đó bởi một chiến lược quân sự yếu kém từ năm 1965 đến năm 1968,khi diễn ra các quyết định chính trị sai lầm và kèm đó là các tâm trạng sai lầm trong xã hội. Đúng, những yếu tố này đóng vai trò nào đó của mình, nhưng nói cho đúng ra, chúng chỉ đào sâu thêm thực tế đã tồn tại. Và mọi thứ trở nên rõ ràng với tôi vào năm 1966, khi tôi và các đồng đội bị lạc, trở về gặp lại các sĩ quan của đội tàu tuần tra ở phía bắc Vịnh Cameron, miền Nam Việt Nam. Khi đang lang thang tìm đường vào căn cứ, chúng tôi tình cờ gặp một tu viện công giáo. Một ông linh mục đi tới, chỉ đường và cho chúng tôi ăn. Nhưng khi chúng tôi rời đi, một trong những nhà sư hỏi tôi bằng tiếng Pháp (tôi đã học ngôn ngữ này ở trường) tại sao chúng tôi hy vọng rằng ở Việt Nam chúng tôi sẽ làm tốt hơn người Pháp. Tổng thống Eisenhower hiểu rõ tình hình khi ông từ chối cứu trợ quân Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954, mặc dù hầu hết các cố vấn an ninh quốc gia của ông ta, bao gồm cả Phó Tổng thống Nixon lúc bấy giờ và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng, Đô đốc Redford đã đề nghị Eisenhower Cứu giúp người Pháp. Nhưng tham mưu trưởng lực lượng lục quân, Tướng Matthew Ridgway, người đã giúp chúng tôi tránh thất bại ở Triều Tiên, cũng đã thuyết phục Eisenhower không nên can thiệp vào Việt Nam, bởi vì ông ta, giống như nhà sư đã nói với tôi, tin rằng chúng ta không thể đánh bại người Việt Nam được.

Tương tự như vậy, số đông người Mỹ đều phản đối chiến tranh Việt Nam, không chỉ vì lời kêu gọi mà Bing chỉ ra một cách đúng đắn, mà còn vì những người có đặc quyền có thể tránh được lời kêu gọi đó,còn tầng lớp thấp hơn phải gánh lên vai gánh nặng chính của cuộc chiến ấy. Ví dụ,như bốn vị tổng thống gần đây nhất có thể đã phải sang Việt Nam tham chiến nhưng họ đã né tránh được cuộc chiến và cả những lời kêu gọi kia bằng những cách đầy nghi ngờ. Bill Clinton giả vờ tham gia Dịch vụ Huấn luyện Sĩ quan Dự bị Quân đội. George W. Bush đã lợi dụng các mối quan hệ chính trị của mình để được vào Lực lượng Không quân Vệ binh Quốc gia khi Tổng thống Johnson tuyên bố rằng các lực lượng dự bị sẽ không tham gia chiến đấu. Bác sĩ gia đình của Donald Trump, tất nhiên, đã chẩn đoán ông ta bị chứng loãng xương ( bản thân Trump cũng không nhớ bị thương ở chân nào). Và Joe Biden lập luận rằng căn bệnh hen suyễn mà ông ta mắc phải khi học tại trường đại học đã khiến ông không thể phục vụ trong quân đội, mặc dù Joe Biden từng khoe khoang về thành tích thể thao của mình khi còn là sinh viên.

Khi phân tích lý do tại sao chúng ta không thể giành thắng lợi ở Iraq, Bing bỏ qua thực tế chính quyền Bush đã tham gia vào cuộc chiến khi tuyên bố sai lệch rằng Iraq sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt. Hơn thế, khi chỉ trích chính quyền Obama về việc rút quân khỏi Iraq vào năm 2011, Bing đã phớt lờ thực tế rằng Obama không có lựa chọn nào khác. Ông ấy đã làm điều này bởi vì vào năm 2008, chính phủ Iraq mà Obama đã giúp đưa lên nắm quyền, đã nói cụ thể là họ sẽ không ký một thỏa thuận về tình trạng của quân đội nếu chúng ta không đồng ý cho họ rút quân hoàn toàn vào cuối năm 2011.

Tôi đã tận mắt chứng kiến điều này khi làm việc tại trụ sở ban tham mưu tranh cử của Obama và vào mùa hè năm 2008, gặp Bộ trưởng Ngoại giao Iraq Hoshyar Zebari. Khi tôi hỏi ông ấy về thỏa thuận rút quân, ông ấy nói rằng yêu cầu này không thể thương lượng được. Khi tôi nói điều này với Denis McDonough, người từng làm việc tại ban tham mưu của Obama, và sau đó đứng đầu bộ máy của Obama, Denis McDonough đã rất ngạc nhiên và hỏi tôi có chắc chắn về những gì mình đã nghe không. Trong chuyến thăm Iraq năm 2009, tôi đã nêu vấn đề này trong các cuộc trò chuyện với một số nhà lãnh đạo quốc hội và cơ quan hành pháp, và nhận được câu trả lời tương tự. Vào tháng 12 năm 2011, khi Thủ tướng Iraq Nuri al-Maliki đến Washington để ký kết thỏa thuận này, tôi, ông cố vấn số 1 của Obama về an ninh quốc gia David Jones và Bộ trưởng Quốc phòng tương lai Chuck Hagel đã gặp ông ấy. Khi tôi hỏi thẳng Thủ tướng Irag liệu Tổng thống Obama có làm gì đó để lưu giữ quân đột tại Iraq không. Về cơ bản, Thủ tướng Iraq nói rằng Bush đã đưa ra một thỏa thuận và Mỹ nên tuân theo thỏa thuận đó. Tại cuộc họp đó, Jones nói rằng Obama muốn giữ 10.000 quân.

Bing cũng bỏ qua thực tế rằng chính quyền Bush chưa bao giờ cả về phương diện công khai lẫn riêng tư cảm ơn Iran vì sự giúp đỡ của họ ở Afghanistan, nhưng đã công khai chỉ trích Iran. Tôi đã chứng kiến điều đó tận mắt. Vào ngày 11 tháng 9, tôi làm việc ở New York tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại. Sau vụ khủng bố, đại diện Iran ở Liên hợp quốc mời tôi ăn tối và yêu cầu tôi truyền đạt cho chính phủ Mỹ rằng Iran ghê tởm đối với Taliban (những thành viên của một tổ chức khủng bố bị cấm ở Nga ) Và chính vì thế họ sẵng sàng giúp Mỹ tại Apganhistan. Tôi đã chuyển điều này cho chính quyền Bush. Người đại diện của Bush tại Hội nghị Bonn (tháng 12 năm 2001), nơi chính phủ Karzai được thành lập,đã nói với tôi rằng chính quyền Bush sẽ không thành công nếu không có người Iran. Và Iran đã nhận được phần thưởng gì? Đầu năm 2002, Bush xếp đất nước này vào trục ma quỷ.

Kể từ đó, Iran đã không đóng bất kỳ vai trò tích cực nào trong khu vực và điều này ít được nhắc tới.

Cuối cùng, khi phân tích các sự kiện ở Afghanistan, Bing chỉ ra một cách chính xác rằng quân đội của chúng ta không thể cải biến đất nước này được.. Tuy nhiên, Bing lại khẳng định một cách sai lầm rằng chúng ta cần phải ở lại đó vô thời hạn để tránh tổn hại đến danh tiếng của Mỹ. Nhiều người tham gia cuộc chiến kéo dài 20 năm ấy tin rằng danh tiếng của chúng ta đã bị tổn thất không thể khắc phục được và họ muốn chúng ta thoát khỏi đó trước khi thiệt hại trở nên tồi tệ hơn. Cái logic của những tổn thất chìm này là cân đong được..

Mọi việc sẽ tệ đến mức nào nếu chúng ta rời khỏi Afganhistan vào ngày 1/5 theo thỏa thuận của Trump, và Taliban lên nắm quyền (những thành viên của một tổ chức khủng bố bị cấm ở Nga.). Đặc biệt, điều đó sẽ tồi tệ như thế nào đối với phụ nữ Afghanistan? Khi tôi đến Afghanistan vào năm 2011, tôi đã hỏi một trong những đại diện của Taliban (một tổ chức bị cấm ở Nga) họ sẽ đối xử với phụ nữ như thế nào nếu hoặc khi họ lên nắm quyền. Ông ta nói với tôi rằng đừng lo lắng - họ sẽ đối xử với họ không xấu hơn như đồng minh của họ-những người Ả Rập Xê Út.

Bài báo của Bing West nên được đọc bởi những người tin rằng Hoa Kỳ có thể phát triển và duy trì các nền dân chủ thông qua việc sử dụng vũ lực quân sự. Nhưng họ cần lưu ý rằng còn có những yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến quyết định như thế.

TÔ HOÀNG 

( chuyển ngữ từ bản tiếng Nga )