Nhà văn Ngô Phan Lưu vừa qua đời tại Phú Yên, hưởng thọ 79 tuổi. Truyện ngắn “Buổi sáng biến mất” đoạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 2006-2007 là dấu ấn xuất hiện một lão nông cầm bút trên văn đàn Việt Nam.


BUỔI SÁNG BIẾN MẤT

Truyện ngắn của NGÔ PHAN LƯU

Xóm Ao hiện có hai người bệnh trầm trọng. Rất nặng. Nặng đến mức, giờ đây cái chết nhẹ ngang bằng hơi thở. Đó là chú Khiêu chồng thím Xanh. Đó là bà Mển vợ lão Sùng. Cả hai đã là trái banh trong chân đội banh Nhà Thương. Đội banh ấy đã cố gắng chuyền nhau, không cho lọt vào “gôn” Tử Thần, nhưng đều thất bại, để trái banh bị lủng, và cũng vì đá quá, cuối cùng xẹp hơi… Ruộng rẫy, bò trâu đã bán sạch. Gia đình họ đang trên bờ vực thẳm… Chú Khiêu ung thư gan thời kỳ chót! Bà Mển ung thư phổi thời kỳ chót ! Chờ chết !

Tổng quát, tình hình là như vậy, bi thảm là vậy. Đó là lý do sáng nay, Thùy đưa hai túi ny lông đựng cam sành và sữa hộp cho Thuấn:

– Anh đi thăm họ nhanh lên… Chần chừ sẽ không kịp thăm!

– Họ ăn được gì mà cam với sữa. Tiền tốt hơn.

– Họ ăn bằng mắt.

Thuấn nín lặng trước câu nói của vợ. Phải! Người sắp chết không ăn gì, nhưng phải có đồ ăn để thấy!

Thuấn xách hai túi cam, sữa, vội vàng ra khỏi nhà, quyết định đến chú Khiêu trước. Anh bước nhanh, tâm trạng bồng bềnh…

*

*     *

Vừa bước chân lên thềm nhà, Thuấn đằng hắng mấy cái… Thấy Thuấn, thím Xanh lật đật bỏ cái thúng đan dở, đứng dậy thoăn thoắt ra cửa, xìa tay đỡ cả hai túi cam và sữa, đặt lên chiếc bàn gỗ tạp xiêu vẹo nơi hiên, miệng phát tía lia như súng liên thanh khạc đạn:

– Chú mày cứ đòi chết, đòi chết, đòi chết… ăn được gì mà mua nhiều thế này, thế này… Cứ đòi chết, đòi chết… không thèm sống, không muốn sống… Cứ đòi chết…

Xổ xong tràng âm thanh khỏe mạnh ấy, thím nhanh nhẹn chuyển hai túi quà vào đặt trên bàn thờ tổ tiên, đoạn trở lại nơi góc phòng, đan tiếp cái thúng dở dang, dường như Thuấn không có mặt ở đấy, bình thản đến lạnh lùng. Thuấn chưa kịp mở miệng nói gì được. Gặp thím là anh câm luôn!

Chú Khiêu được đặt nằm trên chiếc chõng tre sát cửa sổ không cánh, trông thật hoang vu. Da chú màu vàng pha xanh như màu trái bưởi non. Có mấy chiếc lá vàng bị gió quật bay vào đậu trên ngực chú. Anh kéo chiếc ghế đẩu vuông nhỏ, ngồi cạnh giường. Vừa nhặt mấy chiếc lá trên ngực chú quăng ra ngoài, vừa nói động viên:

– Chú lạc quan lên, coi nào! Cứ đòi chết, đòi chết… chết thật đấy! Cái chết mà bực lên nó không tha ai đâu!

Chú Khiêu nhăn nhó, miệng móm riết, nói đứt quãng:

– Sống mà đòi chết là… người ngu! Sắp chết mà đòi sống… lại càng ngu hơn ! Chú không phải người ngu!

Thuấn sững sờ nhìn chăm chú chú Khiêu. Dường như đằng sau lưng câu nói của chú là một khoảng mênh mông cay đắng. Mà cũng dường như câu nói ấy không phải nói với anh, nó dường như một tảng băng trôi về hướng thím Xanh đang ngồi thản nhiên đan thúng. Khuôn mặt vàng pha xanh hốc hác, đôi mắt lõm sâu không nhìn ai cả của chú Khiêu khiến anh nao lòng. Đôi mắt nhìn vào bên trong, thấy sự tan tành một kiếp người một cách kiên cường tuyệt vọng. Nó ráo hoảnh đến se sắt! Đột ngột, chú Khiêu oằn người, mặt nhăn riết, mồm méo xệch, mắt nhắm nghiền, tay ôm bụng. Có lẽ có một cơn đau vừa dạy lên nơi bụng, từ gan… Thuấn luống cuống… Phải! Chú Khiêu nói phải! Đau đớn mà đòi sống, đúng là người ngu! Phải đòi chết cơ, như chú đã đòi ! Có lẽ, cạnh những chân lý năm tháng dài hạn, còn có chân lý phút giây ngắn hạn. Mà cái chân lý phút giây ngắn hạn ấy lại có thể là chân lý vĩnh hằng! Một màn sương hiu hắt vừa rớt phủ vào Thuấn, anh thấy chú Khiêu vừa mờ đi… Ở đấy, trong cái màn sương hiu hắt ấy, sự háo hức, cái vui hơn hớn, cái kiêu hãnh, những tự xưng giá trị… không dám bước vào, bởi chúng bé mọn quá, tầm thường quá!

Biết làm sao được, Thuấn cũng lại phải an ủi, động viên chú Khiêu với một ý thức rõ, mình đang đuổi trung thực ra khỏi mình:

– Nói thế sao được, hả chú? Cứ xem lão Phiệt đấy, cũng trầm trọng chí tử liên miên, mua hòm trước có đến ba lần, đều cất đấy chờ mọt ăn. Vậy mà nay vẫn sừng sững chén thịt chó…

Chú Khiêu quay mặt lơ đãng ra cửa sổ, nơi có tiếng hót trong veo, ríu rít của mấy chú chim sâu trong khóm lựu xơ xác. Chú lại nói, giọng yếu ớt:

– Mua hòm trước là… người khôn! Không mua hòm trước là … kẻ dại! Chú đã dại! Chết rồi, ai mua?

Thuấn lại nín lặng. Cái nín lặng buộc anh nín lặng. Lại cũng ở tầng sâu câu nói ấy, trùng trùng cay đắng oán hờn ! Thì ra, tất cả những gì không phải xương thịt trong chú Khiêu, đã tan vỡ ! Ừ, phải và có thể, chân lý mà không riêng lẻ, là không chân lý nữa rồi ! Làm gì có chân lý ngắn ngày, dài ngày, làm gì có vĩnh hằng, giây phút, có lẽ chỉ có chân lý riêng tư mà thôi ! Lại một màn sương hiu hắt đậm đặc hơn, tiếp xuống !Câu nào anh thốt ra đều hỏng trước chú ! Ngồi cạnh chú, anh thẫn thờ…

Lúc này, có chú y tá bước vào nhà. Đã tới giờ chích moọc phin giảm đau. Thuấn hỏi vu vơ, không nhìn chú ta:

– Không có ánh sáng à?

– Tối thui!Gan trầm trọng! Nghe thế, Thuấn quay lại, xua tay… Nhưng chú y tá đã cười:

– Chú ấy rõ rồi ! Vợ con chú ấy đã nói vào tai: “ Gan ông đã nát rồi ! ”.

Nghe thế, Thuấn hụt hẫng, đột ngột chơi vơi vào một vùng mênh mông im lặng. Một vùng không tên. Một vùng chết. Một vùng tê liệt… Như một phản xạ, Thuấn nhìn chăm chú vào chú Khiêu. Trên khuôn mặt gần như lần đầu, không có gì xảy ra cả. Cái chết đã là bạn thân quý của chú rồi ! Và, rõ ràng chú chờ người bạn ấy. Không những chờ, mà còn quý người bạn ấy. Một người bạn im lặng âm u, không hình hài vậy mà rộng lớn vô cùng, chân thành thân thiết với bất kể ai, bất kể tuổi nào!

Chú y tá đóng xong mũi moọc phin, xách túi ra về, chẳng nói gì, cũng không chào ai… Rõ ràng là chú ấy không muốn nán lại. Có lẽ đã bớt đau, chú Khiêu thều thào: – Có ai đưa tôi chai dầu! Thuấn vội hỏi: – Ở đâu? Tôi lấy cho. Nghe thế, thím Xanh từ góc phòng, ngừng đan thúng, móc trong túi áo chai dầu lèo xanh, quăng đến cho anh. Anh không ngờ thím lại quăng, nên chụp lấy không kịp, chai dầu lèo rớt ngay trên bụng chú Khiêu. Quả là nó rơi trúng ngay vùng gan đau. Mặt chú Khiêu méo mó, xám trắng vàng xanh lẫn lộn, mắt cụp lại, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cố chịu cơn đau, không cho bật ra một tiếng rên la đau đớn nào ! Thuấn hốt hoảng nhặt chai dầu xanh lên. Anh sững sờ. Chai dầu còn mới nguyên, vỏ giấy chưa bóc, loại dầu xanh Con Ó, giá thị trường khoảng bốn chục ngàn đồng. Cổ họng anh đắng nghét, khô khốc, anh nuốt nước bọt hơi đau, như vừa bị viêm họng. Một tia sáng vừa xoẹt ngang, tia sáng xuất phát từ chai dầu gió xanh: Có lẽ vì có anh, nên thím Khiêu mới quăng ra chai dầu, mà có lẽ cũng vì có anh, nên chú Khiêu mới đòi thoa dầu ! Trong anh, tất cả nhà này đều rơi lả tả, vỡ tung… Làm gì có chân lý chung, riêng, ngắn hạn, dài hạn. Chúng đã thành rác rồi!

Ngay lúc này, vang tiếng chân nặng nhọc bước vào nhà. Đó là anh Nam, con trai chú Khiêu. Anh đang vác một bao lúa trên vai, mồ hôi chảy như suối. Có lẽ, anh ta đã đi vay mượn từ khá xa đem về. Trông anh rất mệt. Anh không chào Thuấn, nhưng Thuấn lại vụt đứng dậy, hỏi một câu ngớ ngẩn đến lợm giọng:

– Sao? Bác sĩ bảo sao?

Thuấn biết câu hỏi của mình là câu hỏi thừa thãi, chức năng của nó chỉ là biểu hiện sự luống cuống để thay lời chào vô duyên. Nếu chẳng có ai trả lời, nó sẽ rơi vào lại chính anh, để không biết ném đi chỗ nào ! Anh Nam quăng bịch bao lúa xuống nền nhà, bụi lúa bay vất vưởng. Giọng anh khô khốc:

– Bảo sao à? Như chiếc xe trành ! Chế chút xăng vào, lại rống lên ! Chờ ra bãi thải !

Câu trả lời anh Nam tuôn ra, mang một sức nặng lạ thường, đã ấn nhẹp Thuấn phịch lại xuống ghế đau điếng ! Đó là sức nặng của một tan rã giá trị, tan rã triệt để ! Anh thần người ! Sao lại thế nhỉ? Ai bắt anh ta nói câu ấy? Ai bắt anh ta nói? Thuấn méo mặt, như có ai đó vừa thọc vào tim…

Vẫn không nhìn ai, anh Nam cởi áo lau mồ hôi mặt, đi thẳng ra hè sau. Thuấn ngơ ngác, nhìn quanh quất căn nhà trống trơn của chú Khiêu. Trên tường nứt nẻ kia, móc một tấm lịch hình ba ông Phúc, Lộc, Thọ cứt ruồi đầy mặt, áo xống loang lổ bụi thời gian, “lốc” lịch vẫn còn nguyên không ai xé ! Bên này, xót lại bàn thờ tổ tiên hoang lạnh, nơi có hai túi quà cam sữa của anh chễm chệ như khách quý! Đột ngột, trong một tích tắc như có một sức mạnh vô hình lôi anh, anh nhoài người về phía ấy để làm một tên tiểu nhân hèn mạt, một gã vô liêm sỉ, một thằng côn đồ táng tận lương tâm, để giật lại hai túi quà đem đi chỗ khác. Đem đi chỗ khác cho dù quăng đi cũng được, bởi thế nào, thím Xanh và anh Nam cũng sẽ ăn! Nhưng không, một tích tắc qua rồi, anh đã ngồi thẳng lại. Anh đã không làm được! Cho dù có rứt xé, anh vẫn là anh, một người tên Thuấn! Cái tên là ngôi nhà của anh, cũng là ngôi mộ của anh! Rồi cũng thật đột ngột, anh quay nhìn chú Khiêu để xem chú còn hay mất. Chú Khiêu vẫn còn… Chú đang cắn chặt hai hàm răng chú đã lún mất vào nướu, đôi mắt nẹt lửa. Trông chú như vừa run, vừa cười, vừa khóc. Tất cả những cái ấy chú đã nuốt vào bụng, và ngay nơi cái vùng gan đau nơi bụng! Chú cuộn người như cái lò xo trong sự yên lặng cực kỳ! Từ người chú, không phát ra bất kỳ một âm thanh nào, cho dù âm thanh hơi thở! Anh đang xem một đoạn phim câm cực kỳ câm lặng! Cái nghèo bọc lấy sự hoạn nạn đã bốc khói! Tại sao bốc khói? Tại vì những thứ đẹp đẽ đã cháy rồi ! Và, cũng thật đột ngột, anh cũng y như chú Khiêu, răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, môi mím lại, anh vụt đứng dậy, quăng chai dầu gió xanh lại cho thím Xanh, bước nhanh ra khỏi nhà, mang theo một lòng thương kỳ lạ đến ác độc, là thương… tại sao chú Khiêu không chết đi, để ra được khỏi nhà!

Anh loay hoay với lòng thương kỳ lạ ấy, buổi sáng đã biến mất, quên cả thăm bà Mển như chương trình…