Ký ức của nhà văn Lê Văn Nghĩa: Tôi nhớ cột cờ Thủ Ngữ vì thường thấy cột cờ nầy từ một nhà hàng vũ trường bậc nhất nổi tiếng trong dân chơi cách đây gần 20 niên. Vật đổi sao dời, nhưng cột cờ vẫn đứng hiên ngang phất phới chào mừng mấy con tàu từ xa như thời xưa.


CHUYỆN VỀ MỘT CÁI CỘT CỜ…

LÊ VĂN NGHĨA

Cột cờ cũng mà có chuyện, hay thiệt. Số là thằng bạn tôi từ xứ ngoài vào chơi. Nhờ dẫn nó đi thăm thú tôi mới biết được thêm vài nơi mà gần cả đời tôi chỉ đi ngang chứ chưa hề đặt chân vào. Thú thật, khi nó thấy được lầu Tứ Phương Vô Sự trong dinh Thống Nhất thì tôi, người dẫn nó đi chơi cũng là lần đầu tiên leo lên đây. Nói ra thì mắc cở chứ cái gì quá quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày minh tưởng biết hết, chứ thật ra có biết gì đâu. Y như vợ của mình vậy. Sống cả đời mới biết mình sợ vợ không phải vì sợ vợ mà là sợ chính những tội lỗi đã qua và tiềm ẩn của mình.

Đi chơi nhiều, nó bắt đầu so sánh phân tích rằng ở Hà Nội có một cái cột cờ, Huế cũng có một cái cột cờ sao TP HCM không có? Tôi mạnh miệng, hùng dũng trả lời rằng ‘ai nói là không có, tao sẽ dẫn mầy ra bờ sông Sài Gòn coi cột cờ Thủ Ngữ chơi’. Tôi nhớ cột cờ Thủ Ngữ vì thường thấy cột cờ nầy từ một nhà hàng vũ trường bậc nhất nổi tiếng trong dân chơi cách đây gần 20 niên. Vật đổi sao dời, nhưng cột cờ vẫn đứng hiên ngang phất phới chào mừng mấy con tàu từ xa như thời xưa.

Nó liền thắc mắc về cái cây cột cờ có cái tên ngồ ngộ dính với chữ ‘Thủ’ nầy. Cả đời nó ăn thịt lợn (chứ không phải heo vì heo ít mỡ hơn mà còn có phim coi nữa) chỉ khoái cái thủ (đầu). Nó nói ‘thủ là nhất như cơ quan có thủ trưởng vậy. Thủ trưởng là ông già nô en ưa phát lộc cho lính thân cận.’ He he…cái nầy nghe quen. Tôi bèn lục trí nhớ của mình khi đọc quyển Sài Gòn năm xưa của cụ Vương Hồng Sển giới thiệu sơ lược cột cờ Thủ Ngữ theo trí nhớ và giọng điệu rất phi lịch sử của mình.

Sau khi chiếm Sài Gòn, năm 1860, muốn dễ bề khai thác thuộc địa kiếm ăn, Pháp mở rộng Cảng biến nơi nầy là thương cảng lớn để thông thương giao dịch quốc tế lẫn nội địa. Nhằm mục đích báo hiệu cho tàu bè từ xa khỏi đi lạc tầm bậy tầm bạ xuống Cần Giờ hay Vũng Tàu , Pháp cho xây dựng một cột cờ có tên tiếng Pháp là Mât des Signaus cao 30 m,.treo cờ hiệu đón tàu thuyền ra vào cảng Nhà Rồng. - nơi giao giữa sông Sài Gòn và kênh Bến Nghé.  “Trên chót vót ngọn cờ thường thấy treo ám ngữ, ban ngày là cờ vải, cờ màu, hoặc một quả bóng sơn đen. Ban đêm thì treo một ánh đèn, khi trắng khi đỏ, tức là ám hiệu báo tin cho tàu bè biết hiệu lịnh tránh lỗ rạn hiểm nguy, ghe thuyền qua lại, trong lúc vô ra sông Sài Gòn”.

Ngày xưa, nơi nầy là trạm Gia Tân , từ đó mới có câu Gia Tân nền tạm thuở xưa/ Ngày nay có dựng cột cờ gần bên (Trương Vĩnh Ký). Được biết cái nền tạm nầy là nền cũ của dinh quan thủ ngự chuyên chăm lo giao thương của nhà Nguyễn. Hiện nay, có hay cách lý giải về chữ Thủ Ngữ.  “Thủ” có nghĩa là “giữ, giữ gìn”. Cột cờ “Thủ ngữ” mang nghĩa là “điểm/vị trí giữ cửa/cảng biển”,điều hành,. kiểm soát những chuyến tàu ra vào. Cách hiểu thứ hai cho rằng Thủ Ngữ chính xuất phát từ chữ Thủ Ngự-nơi cây cột cờ được dựng lên và sau nầy được xây làm gồm ba tầng,. phần dưới cùng là nền cao, phía trên xây ngôi nhà bao quanh chân cột. Gian chính giữa cao hơn,. có phần mái hình bát giác giống kiến trúc thành Gia Định xưa. Cây cột sắt được níu bằng nhiều sợi cáp thép lớn. Tôi nghiêng về ý kiến thứ hai hơn vì thường dân hay lấy tên người đặt cho địa danh và cột cờ chẳng giữ gìn, hay bảo vệ gì cả. Đơn giản chỉ là một cột cờ báo hiệu mà thôi.

Từ khi có cột cờ Thủ Ngữ, hình ảnh một Sài Gòn với tàu bè ra vô ngã ba sông Thị Nghè ráp với rạch Bến Nghé, một thủy xưởng Ba Son mở rộng từ thủy trại từ thời chúa Nguyễn, gần đó có khách sạn Wang Tai ( xây năm 1867, nay là trụ sở Hải quan) Sài Gòn đã ra dáng là một thành phố thương mại, kinh tế trù phú. Người Pháp tự hào là ‘Hòn ngọc Viễn đông’ là từ khu thị tứ từ dinh Thượng thư (nay là Sở TT-TT và Sở Cong Thương), dinh phó soái (dinh Thống đốc, nay là Nhà bảo tàng lịch sử TP), Nhà thờ Đức Bà với những con đường Catinat (Đồng Khởi), Bonard (Lê Lợi), Charner (Nguyễn Huệ), khu Bồn Kèn…Có lẽ khu cột cờ Thủ Ngữ ngày xưa cũng hấp dẫn dân ‘chiều hay lai rai tán dóc’ nên có tên rất tượng hình ‘Mũi đất bọn tán dóc’ (Pointe des Blagueurs). Tương truyền, có một câu hát ‘nửa Tây, nửa Việt’ của một chị bán hàng khi thất tình như vầy: ‘Thượng thư, phó Soái, Thủ Ngữ treo cờ (hò hơ)/Bu-don (nước dùng), ôm lết (trứng omelette), bít tết, xạc xây (hầm bà lằng)…

Đọc Sài Gòn năm xưa của cụ Sển viết thì biết khu ‘Mũi đất bọn tán dóc’ là nơi ăn chơi của Tây, của tay sai. Nhưng khu cột cờ đã từng là nơi đồng bào tràn ngập để đón tiếp Ủy ban Công nhân Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương tháng 1/1934 và đón tiếp ông Goda ngày 1/1/1937. Đến khi Nam bộ kháng chiến, ngay dưới chân cột cờ Thủ Ngữ năm 1945, một tiểu đội tự vệ chiến đấu của dân quân Sài Gòn-Gia Định đã chống trả một đại đội quân Anh. Tầm vông vạt nhọn chiến đấu không cân sức với thực dân được trang bị tận răng nên các chiếc sĩ đã anh dũng hy sinh dưới chân cột cờ nầy. Kiến trúc sư Hùynh Tấn Phát trong một lần làm việc với cán bộ ngành văn hóa TP.HCM (1980)“Cột cờ Thủ ngữ mà thiếu niên thời chúng tôi từng lui tới như một trong những biểu tượng của Sài Gòn là một nơi như thế. Nơi đây không chỉ là lịch sử đánh dấu cột mốc giao thương của Sài Gòn thời Pháp thuộc mà còn là nơi ghi dấu công lao gìn giữ Sài Gòn của đồng bào, chiến sĩ ta. Vì ý nghĩa đó mà phải gìn giữ di tích lịch sử quý giá này” (ghi chép của phóng viên Thế Thanh - Báo Phụ Nữ TP.HCM năm 1980-trích báo Người Đô Thị-2017)

Khi tôi nói đến đây, không biết cái giọng nói của tôi thế nào mà thằng bạn há hốc răng hô thành kính mà nghe. Cái cột vầy coi vậy mà dữ lắm à, đừng giỡn nghe lựu!

À, quên nữa, buồn tình ai muốn đến cột cờ Thủ Ngữ thăm thú xin đến số 2 đường Tôn Đức Thắng (phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, TP.HCM), không tốn tiền, chỉ hơi mỏi cổ vì chỉ đứng bên bờ sông mà nhìn lên.

Hãy đến sớm vì sợ sau nầy mình xí lắc léo thì nó vẫn còn. Cột cờ nầy già hơn mọi người là cái chắc, chỉ mới có 155 tuổi tây hà!