“Tôi đã nỗ lực rất nhiều để trở thành một kẻ rồ chữ. Người làm thơ hoạt động ở những vùng biên ngôn ngữ rất giống một người điên. Cái khác biệt giữa họ nằm ở chỗ, người điên thì vượt biên đi thẳng tới cõi vô thức hoàn toàn của đêm tối mù mịt và ở lại đó; còn người làm thơ thì loạng choạng bước một vài bước sang cõi vô thức thì ngừng lại và biết đằng sau quay, trở về cõi ngày của ý thức, sau khi đã lượm dăm mảng đêm của vô thức để mở rộng địa giới của cõi chữ”




PHU CHỮ LÊ ĐẠT

VƯƠNG TÂM

Có lần nhà thơ Lê Đạt trò chuyện. Theo bà cô ruột, người đã nuôi ông từ bé khẳng định, ông sinh năm 1928 tức tuổi con Rồng, chứ không phải năm 1929 như trong khai sinh, tuổi con Rắn. Ông tự điều hoà và hóm hỉnh nhận tuổi mình gồm cả hai là Rồng-Rắn. Rồi ông nghĩ có lẽ vì vậy mà ông thích làm thơ từ khi còn nhỏ.

Tôi chợt nhớ buổi sáng ấy, vào ngày thơ Việt Nam (21-2- 2008, tức ngày rằm tháng giêng Mậu Tý), nghĩa là đúng hai tháng trước khi từ giã dương thế (21-4-2008), nhà thơ Lê Đạt đã có mặt để gặp gỡ bạn thơ nhiều thế hệ. Dường như linh tính báo trước, đây có thể là lần họp mặt cuối cùng của ông trong ngày “Hội thơ mùa xuân”.

Tuy sức khoẻ đã yếu nhưng ông vẫn cứ rổn rang với tiếng cười. Dù đôi mắt đã ẩn dấu nét trầm buồn của tuổi 80 nhưng với thơ ông luôn luôn trẻ trung. Trẻ về sức sáng tạo, trẻ vì cảm xúc thơ nặng trĩu tình đời. Giờ đây mở lại tập thơ “U75 Từ Tình”, tôi đoan chắc chẳng mấy ai có thể quên những câu thơ thật sự kỳ ảo trong bài thơ Nụ Xuân của ông:
“Nụ xuân chớp đông
Hoa xuân chớp hồng
Chũm cau tứ thì chúm chím
Ú ớ mơ ngần
một giấc chim xuân”

Sinh thời ông vẫn chỉ nhận là phu chữ và luôn luôn nói rằng chưa bao giờ mình là thi sĩ. Số lượng sách của ông không nhiều nhưng có lẽ bắt đầu từ tập thơ”Bóng Chữ” (1994), ông đã phát hiện ra mình và tự nguyện lao động khổ sai vì sứ mệnh “Lập từ”. Một quan niệm mới đã được hình thành, lấp lánh từ những năm tháng xa xưa, giờ đã bật lên thành “Gien” trội:
-Thơ tôi lấy chữ làm chính
Rồi ông khẳng định:
-Thơ người ta lập ý, tôi lập từ, thế thôi!
Ông ví von rất thú vị rằng, mỗi người đều có một dạng vân tay khác nhau, vậy mỗi nhà thơ thứ thiệt cũng cần có một dạng “Vân chữ”, không thể trộn lẫn. Lại có lần ông bày tỏ: “Tôi đã nỗ lực rất nhiều để trở thành một kẻ rồ chữ. Người làm thơ hoạt động ở những vùng biên ngôn ngữ rất giống một người điên. Cái khác biệt giữa họ nằm ở chỗ, người điên thì vượt biên đi thẳng tới cõi vô thức hoàn toàn của đêm tối mù mịt và ở lại đó; còn người làm thơ thì loạng choạng bước một vài bước sang cõi vô thức thì ngừng lại và biết đằng sau quay, trở về cõi ngày của ý thức, sau khi đã lượm dăm mảng đêm của vô thức để mở rộng địa giới của cõi chữ”

Chính vì lẽ đó mà ông làm thơ rất nặng nhọc với hình ảnh cày ải trên cánh đồng thơ như một “Phu chữ” đúng nghĩa của nó. Có những bài thơ ông phải mất vài ba tháng trời để hoàn chỉnh chỉ vì nhọc lòng với từ ngữ. Ông đã từng khóc và run rảy vì cảm xúc với những chữ mới ra lò mà ông cho là thành công. Nếu ai đọc truyện ngắn “Lá thư tuyệt mệnh” của ông chắc không thể quên đoạn kết có viết: “Phàm mọi việc trên đời nhất thiết không nên vội, đặc biệt khi làm chữ và khi sắp tự tử”.

Vậy là ông sống, chết trong hơi thở của chữ. Việc tìm ra một chữ mới đối với ông như
công việc của thợ luyện vàng mười vậy.
Ông đã làm việc đúng như ông nghĩ. Chẳng ai có thể quên được những câu thơ độc đáo với chữ mới lạ của ông như:
“Tuổi lú lẫn, ngược nhầm ga trẻ dại
Hay ngây ngô không biết lối về già
Tha thẩn chữ ngã ba…”
Hay như:
“Mộng anh hường- tim môi em bói đỏ -
Giàn trầu già- khua- những át cơ rơi” (U75 Từ tình).
Hoặc thật thú vị với những khổ thơ đặc sắc:
“Đưa anh lần những vùng quên tuổi dại
Thuở trăng sim soi lại bãi ú tim khờ”(Ngó lời)
Trong ngày thơ ấy, giọng đọc thơ của ông đã khàn đi đôi chút nhưng vẫn dầy ấm và nồng nàn tình cảm toát lên từ con chữ:
“Tóc trắng tầm xanh qua cầu với gió
Đùi bãi ngô non
Ngo ngó sông đầy “ (Quan họ)

Sự chơi chữ của ông đã có nhiều ảnh hưởng với các tác giả thơ trẻ sau này. Họ cũng dấn thân tập làm phu chữ như ông và không phải ai cũng thành công. Tuy vậy ông rất khuyến khích các nhà thơ trẻ và đã có lần ông khẳng định, khi người trẻ mới bước vào đời, họ có quyền ồn ào sau đó lắng lại, như vậy may ra mới có cái gì mới.

Ông còn cho rằng cần phải chấp nhận cái nhí nhố của giới trẻ. Ông nghĩ văn chương trẻ náo động tức là họ không bằng lòng với cái cũ. Họ tìm cách chống lại cái cũ và có những màu sắc khác nhau là đương nhiên. Ông đã tâm sự về nghề nghiệp lao động thơ với các nhà thơ trẻ, coi trọng cảm hứng nhưng cảm hứng chỉ là sự khởi đầu, sau đó là mồ hôi và sự vật lộn với từng con chữ. Đúng với sự ví von, thơ là một lạng cảm xúc cộng với một tạ mồ hôi cho công việc khám phá câu chữ mới lạ.

Ông nói với các nhà thơ trẻ với sự trải nghiệm phi thường của mình với thơ ca. Ầm thầm khổ luyện trong kho tàng ngôn ngữ của ông cha, tạo nên một cốt cách văn chương; mang dấu ấn riêng, dấu “Vân chữ” dị biệt. Có thể nói, “Bóng Chữ” đã tạo nên một phong cách thơ mới. Mở từng trang sách người đọc sẽ ngay những câu thơ đúng với nghĩa cuồng say của một “Phu chữ”:
“ Đời tốc hành
một ga xanh sót lại
Một góc tuổi mải tầu
Thơ dại mãi
Tìm nhà quên mất số lớn khôn”( Kết luận)
Đó là những ký ức ẩn chứa nỗi lòng mà ông đã đeo đuổi nó bằng cái “ Bóng Chữ “, cái hàm nghĩa. Nói rõ hơn là cái miền đa nghĩa, đa chiều lung linh gợi cảm. Người đọc xao xuyến chính vì cái “Bóng” của nó:
“Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa

mây mấy độ thu”(Bóng chữ)
Nhiều thập kỷ trôi qua, ông chỉ đau đáu làm mới chữ. Có những lúc ông tự coi mình là kẻ làm khổ chữ. Bởi cái sự nâng lên đặt xuống, cái sự trân trọng con chữ đã làm ông mất ngủ. Thật may sao cái “U75 từ tình” ấy lại có những cái mới để đọc về những cái muôn đời cũ. Đó là tình yêu ở cái lão Phu chữ này:
“ Anh đến mùa thu nhà em
Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ
Mà cho đấy rửa lông mày
Nông nỗi heo may từ đó ”(Thu nhà em)

Đã có ai đó kêu lên rằng thơ ông cầu kỳ, bí hiểm. Tuy nhiên không thể phủ định đời thơ của ông đầy gian lao, nhằm hướng tới một thiên đường thơ ca giàu nhạc tính trong con chữ. Cuối cùng cái công làm phu chữ ấy đã làm nên một chân dung thơ Lê Đạt sống động, đầy biến ảo vì tính giải phóng của con chữ. Đồng thời lão phu chữ Lê Đạt là một sự nghiệp thơ xứng đáng với Giải thưởng Nhà Nước về VHNT (2007) cho các tập thơ và truyện ngắn “Bóng chữ; Ngó lời; Hèn Đại Nhân”.