Vừa bước vào nhà tôi thấy Nguyễn Đức Sơn cầm một con dao dí Nguyễn Thị Phượng vào sát vách, Tôi kêu lên: Sơn, làm gì vậy?”. Nguyễn Đức Sơn vứt dao, choàng vai tôi bước ra ngoài: “Moa muốn đo sự sợ hãi của Phượng như thế nào!




ĐÁM CƯỚI THI SĨ NGUYỄN ĐỨC SƠN

NGUYỄN MIÊN THẢO

Tôi vào Sài Gòn khoảng giữa thập niên 1960, thuê một phòng trọ ở khu Nguyễn Thông nối dài, gần ga xe lửa. Một hôm vào khoảng 9 giờ sáng, một người đàn ông khoảng 30, áo quần chỉnh tề, thắt cà vạt, tay ôm một chồng sách trên 20 cuốn đến gõ cửa phòng tìm tôi (sau này tôi mới biết khi nào đi đâu Nguyễn Đức Sơn cũng thắt cà vạt vì trốn lính). Anh giới thiệu là Nguyễn Đức Sơn và hỏi tôi có phải là Tụng không (Tụng là tên tục của tôi mà chỉ những người thân mới biết), thì ra do Thái Ngọc San giới thiệu.

Nguyễn Đức Sơn hỏi sơ tình hình ăn ở của tôi và bảo: Cậu cầm mấy cuốn sách đem bán ăn cơm tạm, ít hôm nữa moa lên đón cậu về Bình Dương. Một tuần sau anh lên đón tôi thật. Thực ra tôi biết Nguyễn Đức Sơn từ trước, chỉ là chưa gặp mặt. Tôi biết anh khi tờ MẶT ĐẤT do anh chủ trương ra đời và tôi có gửi thơ nhưng chưa được đăng.

 Nguyễn Đức Sơn sinh sống bằng nghề dạy Anh văn, đời sống rất đạm bạc. Bây giờ lại thêm một miệng ăn quả là vất vả. Nhà Nguyễn Đức Sơn khá rộng, không phên vách, bốn bề lộng gió, nằm trên đường Thích Quảng Đức, cách chùa Tây Tạng (Thủ Dầu Một - Bình Dương) khoảng 300 mét. Ngôi nhà vừa là phòng học, thư viện vừa là nơi ăn ở.

Học trò học với Nguyễn Đức Sơn khá đông, nhưng cuối khoá học chỉ còn vài ba em nên cả hai thường đói. Chỉ cần không trả lời đúng câu hỏi hoặc làm sai bài tập là bị đuổi và đặc biệt học sinh bị đuổi được …trả lui tiền học phí đã đóng trước đó. Thế mà khoá nào học trò cũng đăng ký học rất đông.

Cơm chùa thì không thiếu, cửa chùa thì rộng mở nhưng Nguyễn Đức Sơn cấm tiệt không ăn cơm chùa, vì đang thời gian “tìm hiểucô Phượng, cháu của Hòa thượng Thích Trì Bổn. Và thế là chúng tôi trở thành những kẻ ăn trộm bất đắc dĩ và bảo đảm không bao giờ bị bắt.

Ngày nào hết gạo (mà hết gạo hầu như thường xuyên), Nguyễn Đức Sơn rủ tôi đi dạo vườn chùa, muc đích là xem vị trí của những quả bí đao, bí ngô để chờ tối rình mò đi làm đạo chích. Thực ra hái đôi ba trái ban ngày ban mặt chẳng ai nói gì nhưng Nguyễn Đức Sơn thích vậy. Bí đao hoặc bí ngô cứ rửa sạch, gọt vỏ và nấu nhừ, bỏ một chút muối và xúc ăn bằng bánh tráng. Những hôm có chút tiền, Nguyễn Đức Sơn đi chợ và làm đôi món ăn rất ngon, phổ biến là món xúp xương heo hầm cà rốt, khoai tây.

Cuộc tình của Nguyễn Đức Sơn và cô học trò Nguyễn Thị Phượng chín mùi khi nào thì quả tình tôi không hay biết. Một hôm vào khoảng giữa năm 1967, 1968 gì đó (tôi không nhớ chính xác), Nguyễn Đức Sơn nhờ tôi lên Sài Gòn báo với Thầy Thích Thanh Tuệ in gấp tập thơ Đêm Nguyệt Động để kịp ngày đám cưới. Và khoảng mươi ngày sau, đám cưới Nguyễn Đức Sơn –Nguyễn Thị Phượng được tổ chức tại chùa Tây Tạng.

Từ sáng sớm, môt chiếc xe con 4 chỗ đỗ trước nhà Nguyễn Đức Sơn. Nguyễn Đức Sơn trong bộ com lê màu sẫm sang trọng, đầu húi cua đã chờ sẵn đón những người trên xe bước xuống, đó là Đại đức Thích Thanh Tuệ- chủ Nhà xuất bản An Tiêm; Giáo sư, nhà văn Bửu Ý và Đại đức Thích Nguyên Tánh tức nhà thơ Phạm Công Thiện- Khoa trưởng Văn Khoa, Đại học Vạn Hạnh. Khi biết tập thơ Đêm Nguyệt Động không in kịp ,Nguyễn Đức Sơn chào đoàn nhà trai bằng một câu chửi: “ Đ. mẹ…mẹ thầy, thầy có biết ngày này là ngày ngày trọng đại của tôi không?”. Thầy Thanh Tuệ cười trừ, còn mọi người đã biết Nguyễn Đức Sơn là ai.

Đám cưới cử hành tại đại điện chùa Tây Tạng,Thượng Toạ Thích Trì Bổn, trụ trì chùa, cậu ruột của cô dâu Nguyễn Thị Phượng đại diện nhà gái vừa là chủ hôn (Phượng mồ côi cha mẹ ở với cậu từ nhỏ), Đại đức Thích Thanh Tuệ, đại diện nhà trai, Đại đức Thích Nguyên Tánh (Phạm Công Thiện) và nhà văn Bửu Ý phụ rể.

Trong khi niệm hương lễ Phật,Thượng toạ Thích Trì Bổn và Đại đức Thích Thanh Tuệ quì phía trước, Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Thị Phượng quì phía sau. Nguyễn Đức Sơn dùng miệng mum hết chân nhang, khi cắm nhang vào lư, ba cây nhang của Nguyễn Đức Sơn lùn tịt, không giống ai. 

Khi qua làm lễ cáo tổ tiên, Nguyễn Đức Sơn láy mắt với tôi, tôi nghĩ Sơn bày trò gì đây nhưng không nghĩ ra. Bàn dọn cỗ là loại bàn tròn bằng gỗ, mặt bàn rời đặt trên cái giá 4 chân hình chữ X, Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Thị Phượng quì trưc bàn cáo tổ tiên, lạy bốn lạy. Nguyễn Đức Sơn lạy thêm một lạy, trồi người tới trước, khi đứng dậy, đầu đội vào cạnh bàn, cỗ bàn bị lật đổ không còn một món. Những người dự lễ cưới không ai không cười, trừ Bửu Ý.

Một tuần lễ sau đám cưới, tôi từ Sài Gòn về Bình Dương thăm vợ chồng Nguyễn Đức Sơn. Vừa bước vào nhà tôi thấy Nguyễn Đức Sơn cầm một con dao dí Nguyễn Thị Phượng vào sát vách, Tôi kêu lên: Sơn, làm gì vậy?”. Nguyễn Đức Sơn vứt dao, choàng vai tôi bước ra ngoài: “Moa muốn đo sự sợ hãi của Phượng như thế nào!

Từ dạo đó tôi không còn gặp Nguyễn Đức Sơn. Cho đến những ngày đầu tháng năm 1975, tôi gặp lại Nguyễn Đức Sơn trong một ngôi chùa ở Gia Định .