Câu chuyện của nhà văn Trần Mai Hạnh: Vì viết về đề tài lịch sử đương đại (sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà) bằng sự dung tưởng và hoá thân của nhà văn sang phía bên kia để phục dựng trên cơ sở tư liệu và tài liệu nguyên bản thu thập được, nên tôi tự xác định tác phẩm của mình là “tiểu thuyết tư liệu lịch sử”.





Chiến tranh là một cuộc thử thách nghiêm khắc, toàn diện đối với mỗi dân tộc và mỗi một con người. Bao chứa trong lòng cuộc chiến không biết bao nhiêu vấn đề phức tạp, thậm chí cả những tranh cãi quốc gia kéo dài hàng thập kỷ. Vậy mà, lần đầu tiên, một tác giả dám cả gan đặt tên cho tác phẩm của mình là “Biên bản chiến tranh”. Đó là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh với cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75. Đến nay, sau 6 năm, kể từ lần đầu ra mắt (tháng 4/2014) tác phẩm đã được tái bản liên tiếp tới 5 lần, đã giành được các Giải thưởng danh giá: Giải thưởng Văn học năm 2014 của Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Văn học các nước Đông Nam Á (ASEAN) năm 2015, năm 2017 tác phẩm được dịch sang tiếng Anh, năm 2018 được dịch sang tiếng Lào và là sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trao tặng nước bạn Lào; hiện tác phẩm  đang được tiếp tục dịch sang ngôn ngữ khác.
Sự đồng thuận và nồng nhiệt đón chào của độc giả trong nước và quốc tế cho thấy cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử nhằm phục dựng trung thực sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn trong những ngày tháng cuối cùng của chiến tranh bằng chính tài liệu nguyên bản của phía bên kia (phía Việt Nam Cộng hoà và phía Hoa Kỳ) của nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh thực sự xứng tầm một BIÊN BẢN CHIẾN TRANH. Đúng 45 năm sau ngày chiến tranh kết thúc, tác giả đã bộc bạch nhiều điều trong cuộc trò chuyện với Văn nghệ mà chúng tôi trân trọng chuyển tới bạn đọc sau đây…

@ Ý định xây dựng tác phẩm này nảy sinh trong ông như thế nào? Việc phục dựng tác phẩm từ những tư liệu hết sức “độc” này được khởi đầu ra sao?
Trần Mai Hạnh: Tôi được cử tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh trong đoàn cán bộ, phóng viên đặc biệt của Việt Nam Thông tấn xã do đích thân Tổng biên tập khi đó là nhà báo Đào Tùng dẫn đầu. Tôi may mắn có mặt, chứng kiến và viết bài tường thuật đầu tiên về những giờ phút lịch sử trưa 30/4/1975 tại Dinh Độc Lập. Tối 30/4/1975, trên chiếc com-măng-ca cắm cờ giải phóng tôi đi khắp Sài Gòn, say sưa ngắm nhìn “Hòn ngọc Viễn Đông” lộng lẫy trong đêm đầu tiên trở về trong lòng dân tộc. Khi về tới trụ sở Việt tấn xã (hãng thông tấn của chính quyền Sài Gòn) mà Thông tấn xã Giải phóng vừa tiếp quản thì đêm đã khuya. Tôi ngủ thiếp đi. Khi choàng tỉnh, giây phút đầu tiên tôi choáng váng trước ánh điện sáng trưng và không hiểu điều gì đã xảy ra. Thế rồi tôi định thần lại và chợt hiểu: Chiến tranh đã chấm dứt, đất nước đã thống nhất, bài tường thuật chiến thắng lịch sử của dân tộc tôi viết cũng đã điện được về Tổng xã ở Hà Nội. Tôi bước ra sân, Dinh Độc Lập ngay trước mặt, cả bốn tầng lầu rực sáng ánh điện. Những quả pháo hiệu liên tục được bắn lên bầu trời như pháo hoa mừng chiến thắng khiến khung cảnh càng trở nên rực rỡ, lung linh. Thành phố đã bước sang ngưỡng cửa ngày 1/5. Những sự kiện lịch sử trưa 30/4 vừa diễn ra tại Dinh Độc Lập phút chốc đã trở thành quá khứ, và sẽ ngày một lùi xa trong lớp bụi thời gian. Những sự kiện lịch sử chỉ diễn ra một lần, cũng như đời mỗi con người chỉ sống có một lần. Tự dưng tôi bật ra ý tưởng phục dựng lại những giờ phút đó, phục dựng lại sự thật lịch sử đã diễn ra trong những ngày tháng sụp đổ cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa (chính quyền Nguyễn Văn Thiệu). Khi ấy tôi còn trẻ, 32 tuổi và trong men say chiến thắng cùng những xúc động mạnh mẽ về chiến tranh, về hoà bình nên mới liều lĩnh quyết định một việc “tày trời” như vậy. Việc truy tìm, tập hợp tài liệu tuyệt mật về cuộc chiến của phía bên kia (phía Việt Nam Cộng hòa và phía Hoa Kỳ) rồi hóa thân phục dựng lại thật trung thực sự sụp đổ của cả một thể chế, cả một chế độ tay sai như nó đã diễn ra, với tôi lúc đó gần như là một điều không tưởng. Khi tôi thưa với Tổng biên tập Đào Tùng về ý định xây dựng cuốn sách mới nảy sinh, ông hết sức hoan nghênh và khuyên tôi cần tiến hành ngay việc tìm kiếm, sưu tập các tài liệu nguyên bản từ phía bên kia, cả nguồn tài liệu trong nước và trên thế giới. Ông nói: “Chúng ta may mắn được chứng kiến những giờ phút lịch sử, chúng ta phải có trách nhiệm với lịch sử. Điều cốt lõi của lịch sử chính là sự thật. Muốn phục dựng trung thực sự thật đã diễn ra trong những ngày tháng sụp đổ cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà thì phải phục dựng bằng chính các tài liệu nguyên bản, các văn bản gốc và nhân chứng của các sự kiện lịch sử thuộc phía bên kia, chứ không phải phục dựng bằng trí tưởng tượng và hư cấu của tác giả”. Đó chính là căn nguyên và sự khởi đầu của quá trình xây dựng tác phẩm này.

@ Được biết, trong quá trình xét giải cũng như khi giải thưởng mới công bố, đã có những ý kiến khác nhau về thể loại của tác phẩm này: Văn học hay báo chí? Ông suy nghĩ gì, khi ngay lần đầu xuất bản, trong Lời nhà xuất bản và Lời tác giả đã xác định rõ Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 là tiểu thuyết tư liệu lịch sử?
Trần Mai Hạnh: Sau gần bốn thập kỷ tập hợp được một khối lượng tư liệu đồ sộ, tôi bắt tay viết tác phẩm này. Vì viết về đề tài lịch sử đương đại (sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà) bằng sự dung tưởng và hoá thân của nhà văn sang phía bên kia để phục dựng trên cơ sở tư liệu và tài liệu nguyên bản thu thập được, nên tôi tự xác định tác phẩm của mình là “tiểu thuyết tư liệu lịch sử”. Đơn giản vậy thôi. Và cũng vì xác định tính tư liệu trong cuốn tiểu thuyết về đề tài lịch sử này như vậy, nên trong Lời tác giả tôi đã thưa với bạn đọc cụ thể 5 nguồn tài liệu tôi đã căn cứ vào để xây dựng nên tác phẩm, đồng thời dưới mỗi chương đều có phần ghi chú rõ  nguồn và nơi hiện đang lưu giữ những tài liệu mà tác giả đã viện dẫn và dựa vào khi xây dựng nên chương sách đó, để nếu cần bạn đọc có thể tra cứu.

@ Được biết, lâu nay về thể loại thường chỉ xác định là tiểu thuyết với các tiểu loại (còn gọi là thể tài): Tiểu thuyết tư liệu, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết dã sử. Vậy thể loại tiểu thuyết tư liệu lịch sử như ông xác định cho tác phẩm của mình có phải là một khái niệm mới không? Ông suy nghĩ gì khi đặt tên tác phẩm của mình là “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75”?
Trần Mai Hạnh: Xin cảm ơn câu hỏi của anh. Tôi nghĩ việc phân định thể loại văn học cũng như xác định “tiểu thuyết tư liệu lịch sử” có phải là một khái niệm mới hay không, trước Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đã có nhà văn nào ghi thể loại tác phẩm của mình như thế chưa thì đó là chuyện của giới lý luận phê bình văn học. Là người viết văn không chuyên, tôi ghi thể loại tác phẩm của mình là “tiểu thuyết tư liệu lịch sử” chỉ với suy nghĩ đơn giản như đã trình bày ở trên. Còn tên sách, khi dùng hai chữ “biên bản” tôi đã đặt cược sinh mạng chính trị của mình vào sự thật các sự kiện, sự việc, nhân vật và tình tiết lịch sử trình bày trong cuốn sách. Dãy số 1-2-3-4.75 có nghĩa là bốn tháng cuối cùng của chiến tranh: Tháng 1, 2, 3, 4 năm 1975. Tựa đề này, với tôi cũng có thể coi là một mã số vì tôi đã dùng hàng ngàn trang hồ sơ, trong đó có nhiều tài liệu tuyệt mật về cuộc chiến của phía bên kia để viết nên tác phẩm này. Những nhân vật tôi đưa vào tác phẩm của mình là những con người có thật, trong đó có những người lính - mà đã là người lính (tướng hay lính) thì dù ở bất cứ bên nào của chiến tuyến, làm bất cứ nhiệm vụ gì thì đời sống của họ cũng là một phần của chiến thắng hay thất bại của cuộc chiến tranh, nhiều khi là những mã số bí ẩn sống để bụng chết mang theo, thậm chí ngay cả khi chiến tranh đã qua đi cũng không phải dễ gì mà giải mã được, nhiều những ngôi mộ vô danh có thể chỉ là những dãy số vĩnh viễn không có lời giải.

@ Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 viết về đề tài lịch sử đương đại, cụ thể là cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Vậy theo ông, điều cốt lõi nhất của lịch sử và cũng là điều cốt lõi nhất của tác phẩm này là gì? Trong Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 ông đã bỏ tâm sức như thế nào để  tiến tới, một cách gần nhất, có thể, điều cốt lõi ấy? Giữa giá trị lịch sử, giá trị báo chí và giá trị văn học của tác phẩm, theo ông giá trị nào là quan trọng nhất, căn cốt nhất?
Trần Mai Hạnh: Theo tôi, điều cốt lõi của lịch sử chính là sự thật. Lịch sử là tự nó viết ra, không phải anh thắng thì viết thế nào cũng được và anh thua thì nói thế nào cũng xong. Và sự thật cũng chính là điều cốt lõi của tác phẩm này. Muốn phục dựng trung thực sự thật lịch sử đã diễn ra trong những ngày tháng sụp đổ cuối cùng của cả một chế độ, cả một thể chế của phía bên kia (phía Việt Nam Cộng hoà có sự trợ giúp đắc lực của đồng minh Hoa Kỳ) thì trước hết phải sưu tầm, thu thập được đầy đủ nhất (có thể) những văn bản gốc, những tài liệu nguyên bản tuyệt mật liên quan tới việc điều hành cuộc chiến của phía bên kia (phía Việt Nam Cộng hoà và phía Hoa Kỳ), cả ở trong nước và ngoài nước. Đó gần như là điều không tưởng với một nhà báo khi đó mới 32 tuổi đời. Nhờ cơ may của lịch sử (được chứng kiến và can dự), nhờ cơ duyên của cuộc sống với sự giúp đỡ của nhiều người mà cũng phải mất gần bốn thập kỷ tôi mới sưu tập được đầy đủ những tài liệu cần thiết để bắt tay vào viết tác phẩm này. Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 dựng lên một giai đoạn lịch sử của đất nước mà đó là lịch sử đương đại, hàng triệu người gắn bó với nó mật thiết từ các phía, và còn cả gia đình của họ nữa, chỉ cần sai một chi tiết sẽ bị phản ứng ngay. Đơn cử, trong sách có tất cả 285 nhân vật, người thật việc thật, từ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tới tướng lĩnh, sĩ quan các quân đoàn, sư đoàn, tiểu đoàn, rồi tới các cấp chính quyền dưới nữa. Nó phải chính xác cả tên, cả họ, cả tên lót và phận sự công việc mà con người đó đảm nhận. Ví dụ tướng Nguyễn Cao Kỳ mà viết là Nguyễn Quang Kỳ chẳng hạn là sẽ lập tức bị phản ứng, cuốn sách sẽ đổ ngay. Do đó việc tập hợp, đối chiếu, so sánh để kiểm chứng các sự kiện, sự việc, tình tiết và cả chi tiết từ khối tư liệu đồ sộ thu thập được để xây dựng nên tác phẩm rất mất thời gian, đòi hỏi sự cẩn trọng, tỷ mỷ và kiên nhẫn. Trong bài tham luận với tên gọi Về một cách nhìn  lịch sử trong tiểu thuyết đương đại tại cuộc hội thảo về Đổi mới tư duy tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Hà Nội tháng 2/2018, tôi có trình bày về việc sử dụng không gian bốn chiều để soi rọi làm rõ sự thật, bật lên ý nghĩa quan trọng của các sự kiện và tình tiết lịch sử phản ánh trong Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75. Giữa giá trị lịch sử, giá trị văn học và giá trị báo chí của tác phẩm, với tôi giá trị lịch sử là quan trọng nhất, căn cốt nhất. Văn học và báo chí chỉ là hình thức diễn đạt, truyền tải cho giá trị lịch sử của tác phẩm. Trong lời tác giả, tôi đã thưa với bạn đọc là tôi mong muốn tác phẩm của mình có giá trị văn chương, nhưng trước hết phải có giá trị vững chắc về sự thật lịch sử.

@ Có nhà lý luận trong bài viết của mình đánh giá: “chính vì cách nhìn mới mẻ về chiến tranh của tác giả khiến Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 trở thành một hiện tượng độc đáo và có đời sống riêng trong nền văn học viết về chiến tranh hiện tại”. Ông nghĩ gì về nhận xét này? Ông có thể nói rõ hơn cách nhìn về chiến tranh của mình khi xây dựng tác phẩm này?
Trần Mai Hạnh: Tôi xin cám ơn nhận xét, đánh giá của các nhà lý luận, phê bình văn học. Khi bắt đầu xây dựng cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, ngay sau khi Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi, tôi đã hiểu rằng, dù dữ dội và đau đớn đến đâu, cuộc chiến tranh nào rồi cũng qua đi. Những năm tháng khổ đau, máu và nước mắt của bất cứ bên tham chiến nào cũng không bao giờ bị lãng quên và tất yếu trở thành một phần của lịch sử. Suốt dọc đường chiến dịch từ Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn tới Sài Gòn, tôi đã chứng kiến bao câu chuyện đau thương của con người. Những xác chết chưa phân huỷ hết trên dọc đường chiến dịch. Có bà mẹ bị địch kích động, ôm xác con chạy bộ di tản theo Quân đoàn 2 Sài Gòn từ Pleiku xuống Tuy Hòa. Suốt ba ngày cứ ôm xác con vì không tìm được chỗ chôn con. Cũng là đồng bào mình cả chứ ai. Không nên và không thể viết về những điều đó bằng sự lạnh lùng, hả hê của người thắng trận mà cần phải nhìn nhận nó với thái độ nhân văn trước thân phận con người trong chiến tranh. Đó là sự lựa chọn của tôi khi viết cuốn sách này. Tôi xây dựng cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 với một cái nhìn khách quan, không thiên kiến, tôn trọng sự thật lịch sử, nhân văn với số phận những người thuộc phía bên kia, đảm bảo sự trung thực của ngòi bút trước các sự kiện, sự việc, tình tiết đã diễn ra, để các sự việc tự nó cất lên tiếng nói, không chen bất cứ nhận xét, bình luận gì của  tác giả.

@ 31 tài liệu tham khảo tuyệt mật (ở thời điểm đó) in trong phần Phụ lục cuối cuốn sách tái bản lần này gồm nguyên văn các thư từ, điện văn của Tổng thống Mỹ Nixon và G. Ford gửi Nguyễn Văn Thiệu và trả lời của Thiệu; biên bản một số cuộc họp “Hội đồng an ninh quốc gia” của Thiệu; văn bản đệ trình của Bộ Tổng tham mưu, các báo cáo phân tích tình báo của quân đội Sài Gòn và đại sứ quán Mỹ, toàn văn các bức điện chỉ huy tác chiến của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn trong quá trình diễn ra sự sụp đổ... thực sự có giá trị và rất đáng quan tâm. Xin được hỏi ông về xuất sứ những tài liệu đó, vì sao ông sở hữu được chúng và vì sao ông quyết định công bố nguyên văn những tài liệu đó?
Trần Mai Hạnh: Tổng biên tập Đào Tùng khi đó vừa là Cố vấn cho Ban Lãnh đạo Thông tấn xã Giải phóng, ông đồng thời là Trợ lý cho Lãnh đạo Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam và trực tiếp chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của Phân xã Việt Nam Thông tấn xã tại Sài Gòn những ngày đầu giải phóng. Là  phóng viên Việt Nam Thông tấn xã tại Sài Gòn tôi đồng thời được giao làm trợ lý kiêm thư ký giúp việc cho ông. Nhờ đó tôi may mắn được tháp tùng ông trong hơn một tháng đầu của Sài Gòn giải phóng trong hàng loạt các cuộc hội họp, tiếp xúc với đủ các ngành giới, với Uỷ ban Quân quản, với các cơ quan trong và ngoài quân đội. Với Giấy công tác đặc biệt của Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn - Gia Định cấp, với Thẻ nhà báo là Phóng viên của Việt Nam Thông tấn xã, và đặc biệt với tờ báo Nhân Dân số ra ngày 2/5/1975 có đăng bài tường thuật Tiến vào Phủ Tổng thống ngụy ghi rõ tên tác giả Trần Mai Hạnh, tôi dễ dàng tiếp xúc, tạo được niềm tin trong việc tiếp cận, khai thác những tài liệu quý giá phục vụ việc xây dựng cuốn sách của mình. 31 tài liệu tham khảo đặc biệt in trong Phụ lục cuốn sách tái bản lần này, hầu hết là các tài liệu ta thu được tại bàn làm việc và nơi ở của Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà tại Dinh Độc Lập và tại phòng làm việc của Cao Văn Viên, Đại tướng, Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại trụ sở Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn vào buổi trưa và chiều tối ngày 30/4/1975. Cơ may lịch sử, cơ duyên cuộc sống cùng sự giúp đỡ của các cơ quan có thẩm quyền trong và ngoài quân đội đã giúp tôi may mắn tiếp cận, khai thác được những tài liệu quý giá đó và lưu giữ tới nay.
Sau khi sử dụng các tài liệu nguyên bản và các bản văn tin cậy tuyệt mật (ở thời điểm đó) của phía bên kia (phía Việt Nam Cộng hoà và phía Hoa Kỳ) để phục dựng thành công sự thật lịch sử đã diễn ra trong những ngày tháng sụp đổ cuối cùng  của chính quyền Sài Gòn và công bố nó trong cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 rộng rãi với bạn đọc cả trong và ngoài nước, tôi quyết định chọn in nguyên văn 31 tài liệu trên trong phần Phụ lục tài liệu tham khảo đặc biệt của cuốn sách tái bản lần này với hy vọng đáp ứng nhu cầu của bạn đọc và những ai có mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu sâu thêm về những ngày tháng sụp đổ cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà.

@ Ông có thể nêu một trong số nhiều chi tiết mà theo ông là quan trọng được bổ sung trong phần nội dung chính của tác phẩm tái bản lần thứ 5 này? Nếu sau này, cuốn sách được tiếp tục tái bản, ông có ý định bổ sung nữa không?
Trần Mai Hạnh: Trước hết, vì sao cần bổ sung một số chi tiết trong phần nội dung tác phẩm tái bản lần này. Bởi lẽ, kể từ lần xuất bản đầu tiên (tháng 4/2014) đến nay đã 6 năm. Trong thời gian đó xuất hiện thêm một số tài liệu tuyệt mật được phía Hoa Kỳ giải mật; một số sự kiện, sự việc, tình tiết quan trọng trong giờ phút sụp đổ cuối cùng được các tướng lĩnh và nhân vật chủ chốt trong chính quyền Sài Gòn đang sống định cư ở nước ngoài tiếp tục hé lộ. Nhà xuất bản đã thống nhất với tác giả trong việc chọn lọc những chi tiết đắt giá, tin cậy, bổ sung cho nội dung một số sự kiện, sự việc trình bày trong cuốn sách đã xuất bản trước đây được thêm phần đầy đủ, hấp dẫn, phục vụ tốt nhu cầu bạn đọc. Ví dụ chương Nước cờ định mệnh, một trong những chương rất quan trọng của tác phẩm, trong lần xuất bản đầu tiên và 4 lần tái bản trước đây chỉ nói cuộc họp do đích thân Nguyễn Văn Thiệu chủ trì quyết định rút chạy khỏi Tây Nguyên diễn ra tại căn cứ Cam Ranh, không xác định được địa điểm cụ thể cuộc họp tại đâu trong căn cứ. Lần tái bản thứ 5 này, nhờ sự tiết lộ của Phạm Huấn, tuỳ viên thân cận được tướng Phạm Văn Phú mang theo trong chuyến bay khẩn cấp về Cam Ranh dự họp theo lệnh Thiệu (Phạm Huấn không được dự họp, mà ngồi trên trực thăng đợi Phú) tác giả mới bổ sung được chính xác địa điểm cuộc họp diễn ra tại “Toà Bạch Dinh” (tức toà Nhà Trắng). Toà nhà này do quân đội Hoa Kỳ xây cất để đón tiếp Tổng thống Mỹ Lyndon Johson khi ghé Cam Ranh viếng thăm và uý lạo binh sĩ Hoa Kỳ năm 1966, một năm sau ngày Mỹ quyết định đổ quân ào ạt vào trực tiếp tham gia cuộc chiến tại Nam Việt Nam. Sau giải phóng, chạy ra sống định cư ở nước ngoài, trong cuốn Cuộc triệt thoái Cao nguyên 1975 xuất bản ở Mỹ năm 1987, Phạm Huấn đã thuật lại lời kể chi tiết của Phạm Văn Phú về cuộc họp định mệnh này. Vậy là, nhờ sự tiết lộ của Phạm Huấn, chi tiết địa điểm cuộc họp diễn ta tại toà Nhà Trắng được bổ sung  khiến bức tranh Nước cờ định mệnh thêm hoàn chỉnh.

@ Đối với ông, khó khăn lớn nhất khi xây dựng tác phẩm này, và khó khăn lớn nhất khi xuất bản được tác phẩm này tại Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, cơ quan xuất bản chính trị của Đảng và Nhà nước là gì?
Trần Mai Hạnh: Khó khăn lớn nhất chính là việc thu thập những tài liệu nguyên bản tuyệt mật và các bản văn tin cậy liên quan trực tiếp tới việc điều hành cuộc chiến của phía bên kia (phía Việt Nam Cộng hoà và phía Hoa Kỳ) ở cả trong nước và ngoài nước. Phải mất gần bốn thập kỷ tôi mới cơ bản hoàn thành được công việc đó. Số phận cuốn sách không may gắn với cuộc đời làm báo nhiều sóng gió, thăng trầm của tác giả nên việc bảo quản, giữ gìn tài liệu cũng không hề đơn giản. Tác phẩm viết xong in ở nhà xuất bản nào cũng là cả một vấn đề. Có rất nhiều nhà xuất bản danh tiếng mà tôi từng mong ước được một lần in sách ở đấy. Nhưng vì Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 được phục dựng từ những nguồn tư liệu, tài liệu nguyên bản, trong đó có rất nhiều tài liệu tuyệt mật về cuộc chiến từ gần 40 năm trước do tôi thu thập được của phía bên kia chiến tuyến (phía Việt Nam Cộng hòa và phía Hoa Kỳ) chưa từng công bố, nên nhất thiết phải có một nhà xuất bản uy tín, có đầy đủ thẩm quyền tiến hành thẩm định và xuất bản. Đó chỉ có thể là Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, cơ quan xuất bản chính trị của Đảng và Nhà nước ta. Tôi viết thư trình bày về tác phẩm của mình rồi gửi kèm theo bản thảo tới Giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật... và chờ đợi. Thật hạnh phúc khi hơn nửa năm sau, tháng 4/2014, cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật ấn hành, đã chính thức ra mắt độc giả cả nước nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2014). Với việc thẩm định và xuất bản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, cơ quan xuất bản chính trị của Đảng và Nhà nước đã cấp “Giấy khai sinh” cho Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đi vào cuộc sống với số phận của mình.

@ Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 với một đời sống đã được khẳng định và đang ngày một trưởng thành của nó trong hình hài của một tác phẩm văn học, một “biên bản” lịch sử cũng có thể xem là một thành công của tác giả, một món nợ của ân tình và với lịch sử đã được hoàn thành. Ông có điều gì muốn gửi tới bạn đọc trong những ngày cả nước kỷ niệm 45 năm Chiến thắng 30/4/1975?
Trần Mai Hạnh: Trong Lời tác giả in ở đầu cuốn sách cũng như trong phát biểu tại nhiều diễn đàn, tôi đều bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới ông Đào Tùng, ông Đỗ Phượng, các cơ quan có thẩm quyền trong và ngoài quân đội cùng Trung tâm Thông tin - Tư liệu Thông tấn xã Việt Nam. Không có sự giúp đỡ nêu trên, cũng như không có nhiều người lặng lẽ góp sức vào giá trị và thành công của tác phẩm, nhiều người đến nay đã không còn nữa, thì đã không thể có Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75. Không có sự thẩm định, xuất bản của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật và quyết định trao tặng Giải thưởng Văn học năm 2014 của Hội Nhà văn Việt Nam cùng quyết định dịch tác phẩm sang Anh ngữ của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam thì Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 cũng không thể có được một đời sống trong lòng bạn đọc cả nước như hôm nay.
Những giờ phút lịch sử trưa 30/4/1975 vẫn sống động trong tâm trí tôi. Nhưng 45 năm đã trôi qua. Bao biến cố, đổi thay đã diễn ra trong quãng thời gian không ngắn ấy. Nhiều anh chị phóng viên cùng tôi tiến vào Sài Gòn ngày ấy, nay đã không còn nữa. Thời gian trôi chảy, đổi thay không ai níu kéo mãi được. Những sự kiện lịch sử chỉ diễn ra một lần, cũng như đời mỗi con người chỉ sống có một lần. Nhưng để hiểu hết trân giá trị của lịch sử, để hiểu đúng một con người lại cần có thời gian, nhiều khi không thể chỉ đánh giá một lần. Lịch sử và cuộc sống luôn là một dòng chảy liên tục, bất tận. Trong cuộc sống hiện tại ngày hôm nay có nền tảng và những giá trị tinh thần vô giá của quá khứ, đồng thời nó cũng chứa đựng mầm mống và sức sống mãnh liệt của tương lai.

@ Xin cám ơn ông đã mở lòng trong cuộc trò chuyện thân tình này! 

LƯƠNG NGỌC AN - Báo Văn Nghệ