Quan niệm thơ và thơ hay có tính lịch sử. Mỗi thời quan niệm thơ mỗi khác. Hàng ngàn năm Trung đại, chịu ảnh hưởng của mỹ học Trung Hoa cổ ông cha ta làm thơ bằng chữ Hán, rồi sau đó bằng chữ Nôm với hình thức thơ Đường khuôn mẫu, niêm luật chặt chẽ, đăng đối. Tiếp xúc với văn hoá phương Tây, Phong trào Thơ mới 1932-1945 đã làm một cuộc cách mạng thi ca, đưa thơ Việt Nam vào thời kỳ hiện đại. Tính sáng tạo được đặt lên hàng đầu: "Lòng rộng quá chẳng chịu khung nào hết/ Chân tự do đạp phăng cả hàng rào" (Xuân Diệu).
Thời chúng ta đang sống sự phân hóa về thị hiếu, quan điểm thẩm mĩ càng trở nên vô cùng phức tạp. Cánh cửa nhìn ra thế giới rộng mở, các quan điểm, trường phái thơ cũng theo đó mà ảnh hưởng vào Việt Nam. Những tranh luận quyết liệt xung quanh các xu hướng “thơ hiện đại”, “hậu hiện đại”, “tân hình thức”...trong những năm qua cho thấy điều đó. Tuy vậy, thơ dù có hàng ngàn vạn nhánh phát triển thì vẫn có chung bản chất là nghệ thuật ngôn từ. Có thể kể ra mấy tiêu chí của thơ hay. Đó là: Thơ phải có nhạc tính, phải giàu tính nghệ thuật, sử dụng ngôn từ theo nguyên tắc “lạ hóa”… Trên cơ sở chung ấy có khoảng tự do mênh mông cho sáng tạo.
Có thơ hay một cách giản dị, trong sáng. Lại có thơ hay trong sự phức tạp, không dễ hiểu. Thật là thiên hình, vạn trạng. Tôi cho rằng thơ hay là thơ giàu tính nhân bản, minh triết trong nội dung trữ tình và có sáng tạo về thi pháp. Thơ hay không chỉ là thơ đậm đà chất trữ tình, làm nao lòng người đọc mà còn là thơ trí tuệ chiếu những tia rơnghen nhận thức vào cuộc sống phức tạp, vô minh, thức tỉnh con người:
Người ta lớn bởi vì ngươi cúi xuống
(Mara)
Bài thơ hay là một sinh thể nghệ thuật toàn vẹn, có một vẻ riêng, độc đáo, "đọc thì xúc động, nghĩ thì sâu xa" với những dư âm, dư vị không cùng.
Có thể nói đến những yếu tố chính làm nên thơ hay như sau.
1. Thơ hay là khi có nội dung trữ tình giàu tính nhân bản và mới lạ
Những gì xuất phát từ trái tim mới đến được với trái tim. Các thời đại đi qua nhưng trái tim con người có những hằng số, trong đó có sự xúc động trước tình người, trước cái đẹp của thiên nhiên và cuộc sống.
Cuộc sống là tươi đẹp. Con người thật đáng tự hào. Niềm hạnh phúc, tình yêu của con người với con người, với thiên nhiên tất yếu là nội dung trữ tình của thơ ca. Nhưng đó mới là một nửa sự thật đời sống. Nhìn một phía khác thì chiến tranh, áp bức, nghèo khổ, bệnh tật, tai ương, tử biệt sinh ly …luôn rình rập, vây bủa kiếp người trên thế gian. Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói đời là bể khổ. Con người xứng đáng là đối tượng ngợi ca đồng thời cũng là đối tượng để cảm thông, thương xót, nâng đỡ. Thi hào Pháp Alfred De Musset đã viết:
Không gì làm ta lớn lên bằng nỗi đau
Vần thơ buồn thương là vần thơ đẹp nhất.
"Truyện Kiều", "Văn tế thập loại chúng sinh" của Nguyễn Du là những tiếng kêu đứt ruột, thương xót cho những kiếp người "trong trường dạ tối tăm trời đất". Một nhà thơ của thời chúng ta là Dương Tường đã viết một câu thơ rất được đồng cảm: Tôi đứng về phe nước mắt.
Có những bài thơ nhất thời được tán tụng nhưng rồi đã mai một theo thời gian.Không thể có một tác phẩm thơ được gọi là lớn, là hay mà lại xa rời tính nhân bản.
Thơ hay được sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, nhưng đó là cái đẹp mới. Bàn về Thơ mới, Chế Lan Viên đã viết: “Phân chia bờ cõi thơ bằng hai chữ mới, cũ chẳng có ý nghĩa gì”. Nhà thơ Nga Voznesensky(1933-2010) cũng cho rằng: “Không có mới và cũ, chỉ có tài và bất tài mà thôi. Ai có tài thì người đó mới”. Theo chúng tôi, vấn đề không đơn giản như vậy. Cùng một cô gái đẹp nhưng vận áo tứ thân, nón thúng, quai thao và diện mode 2018 cho ta hai vẻ đẹp khác nhau: Một cái đẹp đã thuộc về quá khứ và một cái đẹp cho hôm nay. Thơ cũng vậy. Có nội dung thời đại thì cũng có hình thức thời đại.
Nhà thơ là người không chịu nhìn cuộc sống theo “lẽ phải thông thường” đã trở nên quen thuộc, sáo mòn. Đối tượng công phá thường trực của thơ là sự rập khuôn, máy móc của tư duy, của cách cảm, cách nghĩ, cách viết mà người ta sa vào một cách tự động, nhiều khi không tự biết. Thơ phải gây được hiệu ứng tâm lý ngạc nhiên, thú vị và khâm phục ở người tiếp nhận: Ngạc nhiên ở khả năng nhìn ra cái mới nơi thế giới quen thuộc, ngạc nhiên ở khả năng nới rộng tính nhân bản của con người, ngạc nhiên trước tài năng nghệ thuật và sử dụng ngôn từ. Bài thơ "Tôi yêu em" của A. Pushkine là một ví dụ. Vượt lên sự thường tình Thi hào Nga mãi mãi được ghi nhớ với câu thơ: "Cầu cho em được người tình như anh đã yêu em". Ấn tượng mới lạ cũng thật đậm nét với bài thơ "Ngập ngừng" của Hồ Dzếnh: "Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé ". Mùa Xuân là mùa mở đầu một năm nhưng với Xuân Diệu thì "Xuân không mùa"…
Thơ không thể không có một thông điệp gì đến người nghe, người đọc. Thông điệp ấy có thể là một cảm xúc, một tâm trạng, một suy nghĩ có tính minh triết, một kinh nghiệm thẩm mỹ về cuộc sống, con người và về bản thân ngôn ngữ. Vấn đề là những thông điệp ấy phải thực sự mới mẻ. Bài thơ dân gian "Con cóc" là biếm họa điển hình về loại thơ dở, không có thông điệp gì đáng nói.
2. Thơ hay là khi có cấu trúc tứ thơ độc đáo
Về tầm quan trọng của tứ thơ, Xuân Diệu đã viết: “Ngôn từ, lời chữ, vần rất quan trọng, bởi thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ. Tuy nhiên, đó là cái quan trọng thứ hai. Mà cái quan trọng thứ nhất làm rường cột cho tất cả là cái tứ thơ, nó chủ đạo cả bài. Làm thơ khó nhất là tìm tứ”
Cấu trúc tứ thơ là kết quả của tư duy sáng tạo, là mô hình nghệ thuật tổng quát làm cho mọi thành phần, yếu tố đều tập trung cho ý đồ nghệ thuật, cho chủ đề của bài thơ. Nhà thơ Anh S.Koleridgơ (1772-1834) đã viết: “Một bài thơ hay là những ngôn từ sáng giá trong một cấu trúc hoàn hảo”. Tứ thơ cho thấy rõ tài năng sáng tạo của nhà thơ. Tôi nhớ mãi một bài thơ chống chiến tranh phát xít của nhà thơ Đức Bertolt Brecht chỉ gồm 2 câu:
Hôm nay những lứa đôi yêu nhau
Ngày mai những đứa trẻ mồ côi ra đời.
Cái găm vào trí nhớ ta là cấu trúc tứ thơ độc đáo.
Tứ thơ phong phú, đa dạng do sáng tạo là thuộc tính của thơ. Yêu cầu lý tưởng là mỗi bài thơ phải có một cấu trúc tứ thơ độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên trong thực tiễn sáng tạo thơ ta thường gặp một số kiểu cấu trúc tứ thơ hay như:
-Cấu trúc tứ thơ qui nạp
Ở những bài thơ có mục đích thuyết phục người đọc một ý tưởng nào đó, cấu trúc tứ thơ thường có dạng vận động từ cụ thể đến khái quát. Bài thơ "Tiếng bom ở Siêng Phan" (Phạm Tiến Duật) là một thí dụ. Kết thúc bài thơ là câu thơ cô đúc như triết lý của những con người yêu nước, dám đánh lại kẻ thù hung bạo và dạn dày chiến trận: "Thế đấy! Giữa chiến trường/ Nghe tiếng bom rất nhỏ".
-Cấu trúc tứ thơ diễn dịch
Nhà thơ đưa ra một nhận định khái quát có tính minh triết về cuộc sống, con người rồi diễn dịch bằng nhiều ý thơ như những luận điểm. Tiêu biểu là bài thơ "Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?" rất nổi tiếng của Chế Lan Viên, hay bài thơ"Xuân không mùa " của Xuân Diệu .
-Cấu trúc tứ thơ đối lập
Cấu trúc tứ thơ đối lập rất có hiệu quả trong việc làm nổi bật tư tưởng chủ đề của bài thơ. Ví dụ bài "Hai câu hỏi" (Chế Lan Viên) :
Ta là ai ? Như ngọn gió siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt.
Ta vì ai? Sẽ xoay chiều ngọn bấc
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.
-Cấu trúc tứ thơ tương đồng
So sánh là một thao tác tư duy thường xuyên của con người nhằm làm nổi bật đối tượng nhận thức. Cấu trúc tứ thơ tương đồng làm nổi bật chủ đề trữ tình. Bài thơ "Không đề" (Khuyết danh-Triều Tiên) là một ví dụ:
Khi trên khung cửi chỉ đứt
Cần mẫn em ngồi
Dùng răng dùng môi
Hai đầu nối lại.
Em cũng nên làm như thế đừng quên.
Đây là loại cấu trúc tứ thơ đặc biệt tinh tế khiến ta đọc ra cái vắng mặt trong bài thơ. Các nhà thơ Việt Nam và Trung Quốc xưa thường sử dụng loại tứ thơ này làm nên nét đặc trưng thơ Á Đông. Trong thơ trung đại Việt Nam, bài "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương có cấu trúc tứ thơ dạng này.
- Cấu trúc tứ thơ song song
Ở cấu trúc tứ thơ song song, các khổ thơ trong bài đều có một thành phần điệp cú hoặc điệp ngữ. Tính lặp lại như vậy làm nên cấu trúc độc đáo của bài thơ. Bài "Tự nhủ"" của Bế Kiến Quốc cấu trúc tứ thơ theo dạng này:
Bàn chân ơi, ta đưa ngươi đi
Mọi nẻo đường dù có khi ngươi vấp
Có khi dẫm vào gai và biết đâu có khi…
Ta phải đi vì ta yêu mục đích.
Đến miệng đời dù nghe lời đắng chát
Lời thô bỉ và biết đâu có khi…
Ta phải nghe vì ta yêu tiếng hát.
...
3. Thơ hay là khi có nhạc tính độc đáo
Quan niệm thơ đã thay đổi rất nhiều theo thời gian, trường phái, cá tính sáng tạo của nhà thơ… nhưng có một nguyên lý đã trở thành cốt lõi: Thơ phải có tính nhạc. Tính nhạc không chỉ phân biệt thơ với các loại hình nghệ thuật ngôn từ khác mà còn làm cho mỗi bài thơ là một sinh thể nghệ thuật. Có thể thấy mỗi bài thơ hay có một cấu trúc nhạc tính riêng.
Bàn về thơ, Mallarmé cho rằng: “Nhạc phải đi trước mọi sự”. Có thể dẫn ra những bài thơ hay có nhạc tính độc đáo như: "Say" (Vũ Hoàng Chương),"Nguyệt cầm" (Xuân Diệu)... Đặc biệt các bài thơ bình thanh của Bích Khê như: "Hoàng hoa", "Tỳ bà", "Nghê thường"… có một chất nhạc rất lạ và hấp dẫn:
Ôi trời hôm nay sao mà xanh
Ngọc trăng xây vàng qua muôn cành
Nhung mây tê ngời sao kim cương
Dạ lan tê ngời say men hương.
(Nghê thường)
Bài thơ "Cánh đồng, con ngựa và chuyến tàu" của Tô Thuỳ Yên cũng có một chất nhạc rất thú vị:
Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến nỗi
Tàu chạy nhanh mà qua rất lâu
Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu…
Trong thơ cổ tính nhạc khuôn mẫu và đã được đúc kết với các thể thơ. Lao động sáng tác của nhà thơ gợi người ta nghĩ đến công việc soạn lời cho các làn điệu dân ca. Trong thơ hiện đại mỗi bài thơ phải có tính nhạc riêng độc đáo. Ở mỗi bài thơ hay ta thấy lời thơ được linh cảm về nhạc của thi sĩ dẫn dắt, nhịp điệu vừa tự do, vừa liên hệ với kết cấu nhạc tính toàn bài, cuốn hút người đọc. Thậm chí nhạc có thể đi trước ngữ nghĩa, ta chưa kịp hiểu đã cảm thấy hay như trong thơ tượng trưng. Ví dụ tiêu biểu là tính nhạc của bài thơ "Màu thời gian" (Đoàn Phú Tứ). Dù không hiểu, hoặc hiểu rất ít, nhưng do nhạc tính độc đáo, bài thơ dễ được bạn đọc đồng tình xem là một trong những tác phẩm hay nhất của Phong trào Thơ mới (1932 – 1945).
4. Thơ hay là khi có ngôn ngữ thơ mới lạ
Thơ là nghệ thuật ngôn từ. Nhà thơ là nghệ sĩ ngôn từ. Thơ không chấp nhận thứ ngôn ngữ quen thuộc đến sờn mòn. Chắc chắn là tuổi trẻ hôm nay không ai tỏ tình bằng ca dao: “Đến đây mận mới hỏi đào/ Vườn hồng có lối ai vào hay chưa?. Để diễn tả cảm xúc yêu đương thơ hôm nay sẽ có cách nói khác, phù hợp với tâm lý cảm nhận của người đọc hiện đại.
Nhiều câu thơ như găm vào trí nhớ ta do sự mới lạ:
-Trăng rất trăng là trăng của tình duyên
(Ca tụng - Xuân Diệu)
-Ô hay! buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông.
(Tỳ bà - Bích Khê)
-Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời.
(Thi mi ni - Trần Dần)
-Trời cứ xanh như rút ruột mà xanh
Cây cứ biếc như vặn mình mà biếc
(Ở giữa cây và nền trời - Thi Hoàng)
-Hoa phượng đỏ tiếng kèn đồng mùa hạ
(Thanh Thảo)
Ngôn ngữ thơ đối lập với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ hàng ngày và ít khi là lời nói thẳng. Có vô vàn thủ pháp nghệ thuật để lạ hóa ngôn ngữ: Nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, cường điệu, nói giảm, nói vòng, động từ hóa tính từ, tính từ hoá danh từ...
Lạ hoá trong thơ hiện đại được đẩy lên một nấc mới khi tuyệt đối tự do trong việc kết hợp từ. Nhiều trường hợp dẫn đến phi giao tiếp nhưng cũng không ít khi có những sáng tạo tân kỳ như: "Biển pha lê", "đêm thuỷ tinh", "lệ ngân"...(Xuân Diệu). "Nắng thuỷ tinh" trong thơ Thanh Tâm Tuyền, trong ca từ Trịnh Công Sơn ánh lên một vẻ đẹp mới lạ.
5. Thơ hay là khi có sáng tạo về thi pháp
Bài thơ là một giá trị tổng hợp, nhưng trước hết là nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy các thủ pháp nghệ thuật có một vai trò rất quan trọng. Chất thơ thể hiện không chỉ ở nội dung trữ tình nói điều gì? mà còn ở chỗ nhà nghệ sĩ ngôn từ đã sáng tạo bằng các thủ pháp nào.
Trên hành trình phát triển của mình thơ vừa tích lũy các thủ pháp nghệ thuật truyền thống, vừa không ngừng sáng tạo các thủ pháp mới. Nhận diện những bài thơ hay trong thơ hiện đại là không đơn giản do sự sáng tạo đã nới rộng đường biên lãnh địa thơ. Sáng tạo của nhà thơ thường vượt lên trước tầm đón nhận của công chúng bạn đọc. Nghĩ về Bích Khê, Chế Lan Viên đã viết: “Có những người làm thơ. Lại có những người vừa làm thơ vừa đẩy thơ về phía trước. Khê thuộc loại thứ hai”. Với phong trào Thơ mới (1932-1945) bên cạnh những thủ pháp nghệ thuật như: Nhân hóa, so sánh, ẩn dụ… thơ Việt Nam đã giàu có thêm các thủ pháp mới như: Miêu tả khách thể một cách cụ thể, cảm tính, đặt cạnh nhau những từ xa nhau về ngữ nghĩa, kết cấu bài thơ bằng nhạc tính…Đặc biệt là với thơ tượng trưng đã xuất hiện những câu thơ miêu tả cảm giác và tương hợp mới lạ chưa từng có trong thơ Việt:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn
Như hương thấm tận qua xương tuỷ
Âm điệu thấn tiên thấm tận hồn.
(Huyền diệu - Xuân Diệu)
Tất cả kinh nghiệm sáng tạo cổ, kim, đông, tây… đều góp phần làm giàu kho tàng thơ ca nhân loại. Thật đáng ghi nhận là những nhà thơ đã sáng tạo nên những thủ pháp nghệ thuật mới mẻ, mang dấu ấn phong cách riêng. Tư duy thơ tương hợp gắn với Nhà thơ Pháp Ch. Baudelaire (1821-1867). Hình thức thơ bậc thang gắn với Nhà thơ Nga V. Mayacovsky (1893-1930)…
Như vậy, có thể nói mỗi tác phẩm thơ hay là một phát hiện mới về nội dung đồng thời là một sáng tạo mới về hình thức.