Góc nhìn của Giáo sư Phong Lê: “Động thái quan trọng nhất cho sách giáo khoa - đó là việc tuyển chọn hoặc trích giảng cho giảng văn, về những áng văn tiêu biểu. Trích chọn những tác phẩm lớn như Chinh phụ ngâm (bản dịch), Cung oán ngâm, và nhất là Truyện Kiều 3254 câu thì đó là câu chuyện phải nghĩ, phải chuẩn bị rất kỹ ở cả 3 khâu: người soạn giáo khoa, người giảng và người học”
NGHĨ VỀ SÁCH GIÁO KHOA MÔN NGỮ VĂN BẬC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
PHONG LÊ
1.
Ngữ - Văn gồm tiếng nói và chữ viết. Tiếng nói Việt có từ rất lâu đời, nhiều nghìn năm. Còn chữ viết thì muộn, phải về sau mới có, với trật tự từ Hán - Nôm (hơn 1000 năm), sang Quốc ngữ (hơn 150 năm).
Có tiếng nói là có văn học - đó là văn học truyền khẩu, gồm nhiều loại hình, có trước và cùng tồn tại song song với văn học viết trên suốt chiều dài lịch sử. Và sự giao thoa, tác động qua lại giữa hai khu vực cũng là một tồn tại lâu dài. Những bà mẹ Việt Nam mù chữ vẫn thuộc lòng và lưu truyền 3254 câu thơ Kiều cùng ca dao, tục ngữ và các truyện kể, từ truyền thuyết, cổ tích đến các truyện Nôm khuyết danh. Cho đến thời hiện đại vẫn tồn tại truyện và thơ dân gian - như thơ Bút Tre.
2.
Ngữ Văn - đó là nghệ thuật của ngôn từ, để phân biệt với các loại hình nghệ thuật khác như họa, nhạc, múa, sân khấu, kiến trúc, điện ảnh… Hiện nay người ta phân biệt 3 loại văn, theo cấp độ khác nhau:
- Văn thông tin: cần cho mọi nhu cầu giao tiếp.
- Văn nghị luận: cần chất trí tuệ.
- Văn nghệ thuật: cần xúc cảm, mỹ cảm.
Trong chương trình Ngữ Văn phổ thông, cần trang bị sự hiểu biết và vận dụng cần thiết cả 3 loại văn trên đây. Tối ưu là cả 3. Tối thiểu là 1 và 2. Văn thông tin để diễn đạt tốt các ý tưởng (trong nói và viết) cho bất cứ ai là công dân từ nhỏ đến lớn, trên mọi ngành nghề, mọi phân công xã hội để ăn nói được gẫy gọn, sáng sủa; viết công văn, thư từ (ở tất cả các cấp từ xã, phường đến Trung ương) không sai, vụng, gây nhầm hiểu hoặc khó hiểu. Với văn nghị luận, trong diễn đạt phải có ý tưởng, tư tưởng. Có thêm cảm xúc và có cách thức trình bày mang tính sáng tạo đó là văn nghệ thuật. Nói như Rolland Barthes (1915-1980) chỉ được xem là nhà văn những người có được văn phong và tạo được một ngôn ngữ riêng. Còn Nguyễn Tuân thì rất dị ứng với những người viết cẩu thả và người đọc nông nổi. Như vậy, việc học Văn hoặc Ngữ Văn tối thiểu là để giúp trẻ em biết cách thức giao tiếp trong sinh hoạt và trong trường đời.
Còn tối đa - sẽ có một tỷ lệ nhỏ, hoặc rất nhỏ trong số các em rồi sẽ thành nhà báo, nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn chương, hoặc các nhà khoa học xã hội - nhân văn… Đó cũng là một yêu cầu đặt ra, để trong sự chọn lọc tự nhiên của nó, do nhờ vào năng khiếu mà biết đâu vài chục, hoặc vài trăm năm sau, dân tộc Việt sẽ có thêm một Nguyễn Du cho thời hiện đại. Hoặc không lâu nữa, sẽ có tiếp Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Nam Cao, Xuân Diệu, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Tô Hoài... cùng rất đông các tên tuổi mới sau năm 1945 trên văn đàn Việt Nam.
3.
Cần chú ý nét đặc thù trong lịch sử văn chương Việt như đã trình bày ở mục 1, để có cách đưa đến cho trẻ em bậc phổ thông một cách tiếp cận và tiếp nhận có hiệu quả, đi từ dễ đến khó, từ thấp lên cao. Nếu nương theo lịch sử Việt và dựa theo cái khung văn học sử Việt thì phải bắt đầu từ văn Hán - với các loại hình như hịch, phú, cáo, chiếu, biểu, văn tế, truyện chương hồi, qua văn Nôm - với truyện thơ, sử ca…, rồi mới đến văn Quốc ngữ - với thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, kịch… Điều này rất gây khó cho các em; mà phải theo một trật tự ngược, từ dễ đến khó, bắt đầu từ văn Quốc ngữ thời hiện đại với những áng văn dễ đọc, dễ hiểu rồi mới đi ngược lên những văn bản Hán – Nôm thời trung đại. Có thể bắt đầu bằng những trích đoạn văn của các tác giả tiêu biểu như Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên xen với ca dao, Truyện Kiều, truyện cổ tích…
Ở bậc tiểu học, thậm chí có thể tìm chọn, hoặc đặt hàng cho các nhà văn viết cho các em những bài, những đoạn “kinh điển” như trong sách Quốc văn giáo khoa thư trước 1945 do các học giả nổi tiếng như Trần Trọng Kim, Đỗ Thận biên soạn. Cũng nên hoặc rất cần có môn học thuộc lòng, để các em học thuộc những đoạn văn hay, những bài thơ hay, rồi nhớ suốt đời… Từ khởi động là hiện đại (văn Quốc ngữ) sẽ đi ngược dần về cổ điển (văn Hán và Nôm) cho đến năm cuối - lớp 12, hoặc hai năm cuối - lớp 11 và 12, các em sẽ có được một hình dung sơ bộ về lịch sử văn học, theo trật tự: Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc… đến Tuyên ngôn độc lập và các áng văn Quốc ngữ của các tác giả tiêu biểu thế kỷ XX.
Trong 6 tác phẩm buộc học sinh các cấp phải học như đã kể trên thì chỉ riêng Truyện Kiều là có đủ đầy giá trị văn chương và đáp ứng trọn vẹn các tiêu chí của văn nghệ thuật. Và nói nghệ thuật là nói chức năng bồi dưỡng tâm hồn, vun trồng cái thiện, trau dồi phẩm chất người; nói cách khác là để làm người, trước khi nói đến những kỹ năng khác. Một chức năng tổng hợp như thế cần tìm đến môn Ngữ - Văn; và với môn Ngữ Văn, phải tìm đến những tác phẩm lớn trong đối sánh với các kiệt tác của nhân loại.
Ngoài 6 tác phẩm trên, đương nhiên phải có một cái khung rộng rãi cho sự tuyển chọn, để có thể hình dung lịch sử văn chương đã diễn ra qua các tác giả và tác phẩm tiêu biểu như thế nào? Nên có một Danh mục rộng nhiều tác phẩm qua các thời kỳ, và trên các loại chủ đề, cho người giảng chọn lựa. Danh mục này cần được cân nhắc kỹ trên nhiều tiêu chí, và dựa vào những đánh giá hoặc tổng kết của các giới sáng tác, nghiên cứu, phê bình, giảng dạy qua các thời kỳ, chứ không nên tùy tiện, chủ quan. Có nghĩa là các Ban biên soạn - gồm cả Chủ biên hoặc Tổng Chủ biên phải là những chuyên gia có uy tín lớn, hoặc ít nhất phải được sự tin cậy của các giới chuyên môn.
4.
Nhìn chung, việc tuyển chọn và bình giảng qua 3 bậc: tiểu học, THCS và THPT cần từ dễ đến khó, đơn giản đến phức tạp. Những tác gia, tác phẩm tiêu biểu như Truyện Kiều cần được trở đi trở lại nhiều lần trong nhiều năm, từ thấp lên cao, chứ không phải chờ lên lớp cao mới học; thậm chí nên có phần học thuộc lòng, để cho các ý tưởng hay, và câu văn đẹp trong tiếng Việt thấm sâu vào tâm và trí các em, đến với các em ngay từ đầu đời, và sống với các em suốt đời.
Trong diện rộng của tuyển chọn cần tránh tùy tiện, lười biếng mà phải đạt được sự tâm phục, khẩu phục của các giới chuyên môn. Vì đây là sách giáo khoa cho hàng chục triệu con em, và với giá trị ổn định, bền lâu, chứ không chỉ là nhất thời, thay đổi theo thời vụ, chọn các em làm vật thí nghiệm, để nếu có ý kiến phản hồi, không đồng tình thì chỉ cần “rút kinh nghiệm” là xong! Nếu không đủ sức tìm chọn, thì nhờ chính các tác giả hoặc các chuyên gia tìm chọn, thậm chí có thể tổ chức các cuộc thi về các chủ đề cũ và mới trong các giới sáng tác, nghiên cứu, giảng dạy… để có được những bài hay.
Theo tôi, động thái quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất cho sách giáo khoa - đó là việc tuyển chọn hoặc trích giảng cho giảng văn, về những áng văn tiêu biểu. Với 4 câu Nam quốc sơn hà… thì đó là toàn văn, khỏi phải chọn. Một khổ 4 hoặc 8 câu trong thơ tứ tuyệt hoặc bát cú của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, hoặc Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh thì đó cũng là việc đơn giản. Nhưng còn trích chọn những tác phẩm lớn như Chinh phụ ngâm (bản dịch), Cung oán ngâm, và nhất là Truyện Kiều 3254 câu thì đó là câu chuyện phải nghĩ, phải chuẩn bị rất kỹ ở cả 3 khâu: người soạn giáo khoa, người giảng và người học - để, sao cho với các trích giảng, sau mỗi cấp học, đối tượng chính là trò có thể thâm nhập được dần vào toàn bộ giá trị của tác phẩm. Với Truyện Kiều, thời tôi học sau 1945, gần như ngay từ Cấp II tôi đã thuộc không dưới vài trăm câu liền mạch, cùng toàn bộ cốt truyện, với các nhân vật chính và phụ. Từ sau năm 1956, sau khi vào Đại học, do không theo dõi nên tôi không biết việc học Truyện Kiều ở bậc phổ thông là như thế nào? Gần đây, từ sau 2005, qua bài của PGS.TS Trịnh Khắc Mạnh1, và sách của PGS.TS Trương Xuân Tiếu[2] tôi được biết Truyện Kiều được học ở 2 lớp 9 và 10, bậc phổ thông, với 9 trích đoạn, có tên: Chị em Thúy Kiều (24 câu), Cảnh ngày xuân (18 câu), Kiều ở lầu Ngưng Bích (22 câu), Mã Giám Sinh mua Kiều (26 câu), Thúy Kiều báo ân báo oán (54 câu) - lớp 9; Trao duyên (34 câu), Nỗi thương mình (20 câu), Chí khí anh hùng (18 câu), Thề nguyền (22 câu) - lớp 10. Nếu buộc học thuộc lòng thì cuối cấp phổ thông mỗi học sinh sẽ thuộc được tối thiểu 238 câu Kiều… Đến năm 2018, trong Chương trình giáo khoa mới đang được soạn thảo để trưng cầu ý kiến của các giới chuyên môn mà tôi có được mời dự, Nguyễn Du và Truyện Kiều được giảng ở 2 bậc: cấp cơ sở (8 và 9), cấp phổ thông (10 và 12), kèm với một số tác giả, tác phẩm cổ điển khác, nhưng chưa nói rõ được trích chọn và giới thiệu như thế nào.
5.
Lịch sử văn học - để nắm hiểu được nó, là cả một giàn giáo rất nặng; thế hệ tôi phải vào bậc Đại học mới được làm quen với khái niệm này. Do vậy không cần thiết phải chất đầy, hoặc nhồi cho đủ mọi tri thức liên quan vào đầu óc non trẻ của các em. Chỉ cần gợi giúp các em có được một hình dung sơ bộ, qua các áng văn tiêu biểu, dễ tiếp nhận, sau khi kết thúc bậc phổ thông. Để sau này, khi vào bậc Đại học, chỉ những ai chọn nghề ở khu vực văn chương, hoặc khoa học xã hội - nhân văn nói chung mới cần đi sâu, với tính hệ thống của nó, bằng các giáo trình, hoặc chuyên đề. Cũng như vậy, lý luận văn học, là môn phải vào bậc Đại học mới cần đến nó. Không nên vội nhồi vào các em những khái niệm vừa quá sức, vừa khó tiêu - như là văn bản, chủ thể, nhân vật, điển hình, cá tính, trường phái, chủ nghĩa… này nọ.
Theo tôi hiểu, viết một giáo trình cho bậc Đại học dễ hơn rất nhiều lần so với bậc phổ thông; và ở bậc phổ thông thì các cấp thấp khó hơn cấp cao. Do vậy ở khu vực này cần nhiều “hội nghị Diên Hồng” lớn nhỏ, trên nhiều khu vực với sự tập hợp ý kiến của các chuyên gia tiêu biểu những người trong ngành, kể cả những người ngoài ngành.
Nguồn: Văn Nghệ