Hôm nay nhiều người Việt đã không còn nhìn nhận sự kiện 30-4-1975 như là một sự kiện thuần túy sắt máu, cũng như không còn nhìn nhận toàn bộ nền văn minh vật chất và tinh thần của xã hội miền Nam chỉ là sản phẩm của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ để lại. Cũng trong hoàn cảnh nhiều người trong giới viết văn, nghiên cứu phê bình trong nước đã nhìn nhận hai nền văn học ở trên là một tiến trình phát triển, một bộ phận hiển nhiên không thể bỏ đi của nền Văn học hiện đại Việt Nam.
Họ quên rằng trong hàng chục thế kỷ đã qua, dân tộc Việt Nam đã có nhiều thời kỳ sống dưới ách đô hộ nước ngoài nhưng không một ngoại bang nào, không một chính thể nào có thể thay thế được nền văn hóa Việt bằng nền văn hóa của họ. Hai là không thể lẫn lộn cái gọi là sự xâm lược văn hóa với sự lan tỏa ảnh hưởng của những nền văn minh trong văn hóa của những dân tộc phát triển theo sau các đạo quân đế quốc như của Trung Hoa, Pháp và Mỹ đối với nước ta. Chính thể nào, quốc gia, cộng hòa hay cộng sản cũng đều có bộ máy văn hóa để tuyên truyền cho nó, cố gắng áp đặt ý chí của nó nhằm tạo ra một bộ mặt văn hóa minh họa cho bản chất của nó nhưng xét đến cùng các chính thể không thể lãnh đạo được toàn bộ nền văn hóa của một dân tộc. Ngoài yếu tố bản thể tự nhiên, các nền văn hóa tư sản hay cộng sản bao giờ cũng có yếu tố dân tộc, hiện thực, nhân đạo, yếu tố mới, yếu tố đẹp, yếu tố phản kháng, yếu tố chống chiến tranh, bạo lực... Vậy thì nền văn hóa của cả nửa dân tộc Việt xây dựng ở miền Nam trong 20 năm 1954-1975 không chỉ có mỗi hình thái nô dịch đồi trụy. Hiển nhiên nó vẫn chảy theo lộ trình của văn hóa dân tộc Việt có từ ngàn năm. Chỉ tiếc rằng thế giới quan vụ lợi về chính trị đã làm cho giới nghiên cứu bấy lâu nay gạt bỏ hết phần giá trị của nó.
Vậy thì cần phải nhìn văn hóa, văn học miền Nam 1954-1975 với cách nhìn của hôm nay trong tiến trình lịch sử dân tộc, với các giá trị của tiến bộ xã hội, của con người, với xu thế phát triển của thế giới hiện tại. Phê phán những người vì mục đích tiền bạc hoặc hư vinh mà phục vụ cho guồng máy tuyên truyền của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa nhưng cũng cần phân biệt những người còn ý thức về sự tồn vong của dân tộc, đất nước, về sự đau khổ của đồng loại, những người sáng tạo vì vẻ đẹp của dân tộc. Thậm chí trong bối cảnh chiến tranh lúc đó, thái độ lưỡng lự, hoang mang, u sầu thôi cũng góp phần không hun nóng thêm những cái đầu khát vọng chiến tranh. Hoặc một tác phẩm phản ánh khách quan sự thật băng hoại của xã hội miền Nam cũng có ý nghĩa thức tỉnh tích cực lương tri của cộng đồng. Hoặc những cố gắng cách tân nghệ thuật đưa ngôn ngữ Việt tiếp cận các phương thức biểu hiện hiện đại, các tư tưởng của triết học thế giới đương thời cũng là đáng quý...
Đó là lý do tại sao những phần giá trị của văn hóa, văn học miền Nam 1954-1975 vần sống âm ỉ trong lòng nhiều người miền Nam, cả người miền Bắc, và cả thế hệ trẻ hôm nay.
Sức sống ấy bất chấp những nỗ lực của những người thắng cuộc sau 30-4-1975 đã huy động một bộ máy tuyên truyền, một hệ thống truy quét khổng lồ để tiêu diệt nó.
Khuynh hướng hiện thực
Khuynh hướng phản kháng lại chính quyền
Khuynh hướng chống chiến tranh
Khuynh hướng nhân đạo
Khuynh hướng tình tự quê hương đất nước
Khuynh hướng cách tân nghệ thuật
...
Các khuynh hướng có thể tồn tại trong một nhóm tác giả hoặc đan xen phức tạp trong mỗi tác giả, tác phẩm. Vì thế sự đánh giá mỗi tác phẩm, tác giả của nền Văn học miền Nam 1954-1975 cũng không hề đơn giản.