Đánh giá của Phó Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tú: “Với
tác phẩm “Ngô Vương”, Phùng Văn Khai
đã tạo ra một mô hình lịch sử thời Ngô Quyền, theo chúng tôi là sinh động để
chuyển tải một bài học giáo dục về lòng yêu nước, về tinh thần tự hào dân tộc,
về ý thức tự chủ… bằng một hình thức nghệ thuật”.
Một
mô hình tiểu thuyết lịch sử
NGUYỄN THANH TÚ
Khái niệm
“tiểu thuyết lịch sử” và cách viết, lối phân tích một tiểu thuyết lịch sử,
không phải chỉ ở nước ta, mà còn chung cho nhiều nước, là chưa thống nhất, rõ
ràng. Có nhất định phải trung thành với lịch sử, viết đúng với lịch sử không? Nếu
thế thì sáng tạo của nhà tiểu thuyết ở đâu?... Nhưng có những vấn đề cơ bản thì
hầu như nhất trí:
- Tiểu
thuyết là sáng tạo, là hư cấu, tưởng tượng. Lịch sử là sự thật đã qua. Tiểu
thuyết lịch sử là sự sáng tạo trên nền sự thật mà biểu hiện rõ nhất là các nhân
vật lịch sử. Các sự kiện cũng xoay quanh các nhân vật này. Do vậy nhà tiểu thuyết
phải bám vào nhân vật lịch sử để hư cấu, sáng tạo và không được xuyên tạc nhân
vật lịch sử. Nhà tiểu thuyết vừa là nhà nghiên cứu lịch sử, biết sâu sắc các sự
kiện và thấm thía cao nhất ý nghĩa lịch sử mà mình quan tâm, dĩ nhiên là nhà
văn, thì viết phải có văn để sinh động hoá lịch sử. “Văn” ở đây được hiểu theo
nghĩa rộng, không chỉ lời văn hay câu văn đẹp mà còn là kết cấu, cốt truyện,
xây dựng nhân vật, chi tiết, đối thoại… nhìn chung là cách kể hấp dẫn.
- Nhà tiểu thuyết lịch sử phải tạo ra một ấn
tượng về bài học lịch sử cho độc giả. Nói nôm là phải có một bài giáo dục cho
hôm nay.
Với Ngô Vương, Phùng Văn Khai đã tạo ra một
mô hình lịch sử thời Ngô Quyền, theo chúng tôi là sinh động để chuyển tải một
bài học giáo dục về lòng yêu nước, về tinh thần tự hào dân tộc, về ý thức tự chủ…
bằng một hình thức nghệ thuật.
Hiện nay
người ta không phủ nhận thuyết phản ánh nhưng đề cao lý thuyết mô hình, coi nhà
văn sáng tạo tác phẩm là sáng tạo ra một cuộc sống mới, một thế giới mới. Cuộc
sống trong tác phẩm thoát thai từ đời sống nhưng không đồng nhất với đời sống,
nó chỉ là mô hình về đời sống. Tác phẩm bắt rễ từ hiện thực nhưng không mô phỏng
hiện thực mà tạo ra một mô hình mới về hiện thực. Chính vì thế mà không chỉ văn
học, mà nghệ thuật nói chung người ta đều yêu cầu nghệ sỹ sáng tạo theo mình cảm thấy chứ không phải phản ánh cái trông thấy. Có vậy mới tránh sự trùng lặp,
mới tạo ra sự đa dạng, phong phú. Vì để viết
ra cái cảm thấy thì cả là một kỳ khu, một lao động khó khăn, đòi hỏi phải có vốn
sống, có tài năng thật sự. Nghệ sỹ càng cá tính bao nhiêu càng có cơ hội cảm thấy đời sống sắc sảo, khác biệt bấy
nhiêu.
Tôi cho rằng
viết tiểu thuyết lịch sử là một sự sáng tạo ra một mô hình mới về lịch sử, mà ở
đây xin chứng minh qua một Ngô Vương.
Tác phẩm
đã chọn một đề tài đích đáng để sáng tạo. Ngô Quyền là vị anh hùng dân tộc. Những
sự kiện xoay quanh nhân vật này đủ những phức tạp để nhà văn hư cấu mà không sợ
làm sai lạc lịch sử. Nhưng dù thế, Đại Việt
sử ký toàn thư cũng chỉ viết gọn trong trên dưới hai trang giấy. Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong Lịch sử nước ta cũng
chỉ gói gọn trong câu lục bát: Ngô Quyền
quê ở Đường Lâm/ Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm. Đến Phùng Văn Khai đã
sáng tạo ra một tiểu thuyết dày dặn dày 453 trang, mà tôi gắng đếm tới 96 nhân
vật ở cả hai tuyến chính diện và phản diện. Nói thế cũng để khẳng định thành
công của tiểu thuyết này là ở cách dựng nhân vật khá sắc nét, ở chỗ tạo ra con
người vừa là của ngày ấy với ngôn ngữ, điệu bộ, cử chỉ… nhưng hôm nay vẫn hiểu
được. Thế nên người ta vẫn nói nhân vật của tiểu thuyết lịch sử luôn đi trên
dây, nghiêng về lịch sử thì khó hiểu nghiêng về hiện đại thì mất chất sử. Ở cuốn
này nhà văn đã xây dựng nhân vật Ngô Quyền thành công, vừa uy dũng, lẫm liệt,
sang trọng vừa đời thường, gần gũi, giản dị.
Thành công
nữa của anh, theo tôi là miêu tả những sự kiện, nhất là các trận đánh theo
nguyên tắc điện ảnh. Những Tây du ký,
Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ hử… đậm chất điện ảnh nên đời sau
chuyển thể rất thành công sang ngôn ngữ của nghệ thuật thứ bảy. Nếu không đọc,
người ta chỉ cần xem phim cũng nắm bắt được hầu hết các sự kiện, chi tiết, nhân
vật và ý nghĩa bài học từ tác phẩm văn học. Ở đây xin nói về kết cấu chương hồi,
hơn một người nói với tôi về sự lạc hậu khi tiểu thuyết khoác cái áo chương hồi
quá cũ. Tôi nghĩ khác đấy là một chủ ý, đó là cách tạo ra những chương đoạn để
“lắp ghép” các cảnh được linh hoạt. Nhờ kết cấu chương hồi mà các tiểu thuyết cổ
điển Trung Hoa dễ chuyển sang các cảnh điện ảnh.
Một điểm nữa
cần nhắc đến là chọn được những chi tiết đắt. Dĩ nhiên thể loại văn xuôi nào
cũng cần đến chi tiết nghệ thuật nhưng ở tiểu thuyết lịch sử thì chi tiết đòi hỏi
khắt khe hơn, vừa tái hiện lịch sử, vừa nói được tính cách nhân vật, vừa tạo ra
được ý nghĩa. Ví như chi tiết “Khi soái thuyền chìm dần xuống lòng sông, Giao
vương Lưu Hoằng Tháo uất hận rút kiếm tự sát còn không rời chiếc ghế gỗ bọc da
hổ trong soái thuyền. Bàn tay Giao vương nắm chắc kiếm đến mức đám quân vớt lên
phải loay hoay mãi mới gỡ được…” (tr 376). Khi ta biết đó là thanh kiếm “lệnh”
của Hán đế Lưu Cung trao cho Hoằng Tháo để “làm cỏ” xứ Giao Chỉ thì ta thấy chi
tiết này nói được nhiều về tính cách nhân vật: sự uất hận tột cùng, sự tham quyền
cố vị, sự quyết tâm và dã tâm cướp nước đến cùng, sự thảm bại đau đớn…Cũng với
thanh kiếm ấy thì Ngô Quyền lại cầm và “quẳng thanh kiếm xuống cửa biển Bạch Đằng
lúc này thuỷ triều đang dâng lên ào ạt” (tr 376) thì thật hay: chôn vùi ý chí
xâm lược của kẻ cướp, sự mong muốn hoà bình.
Lịch sử gần
với tâm linh, lịch sử càng xa càng được phủ dày những lớp huyền thoại. Các đền
thờ Hưng Đạo Đại vương có ở khắp nước ta cũng là một biểu hiện tâm linh ngưỡng
vọng, sùng bái người anh hùng có công giữ nước, giữ hoà bình cho chúng sinh. Vì
thế một đặc điểm của tiểu thuyết lịch sử là không thể thiếu yếu tố tâm linh.
Gia Cát Khổng Minh là một siêu nhân về tâm linh, rất nhiều lần ông thắng đối
phương bằng tâm linh. Các anh hùng Lương Sơn Bạc lại mượn đến tâm linh để dựng
cờ “Thế thiên hành đạo” cho hợp lý… Trong Ngô
Vương có nhiều nét tâm linh ý nghĩa. Như trong giấc mơ Ngô Quyền được Bố
Cái Đại vương Phùng Hưng hẹn đem “thần binh” cùng đuổi giặc (tr 333). Đó không
chỉ là câu chuyện thêm thắt mà còn là ý nghĩa “Tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ”
(Nguyễn Trãi). Khi nước có giặc thì không chỉ thời hiện tại mà còn cả lịch sử hôm
qua đánh giặc. Hay “điềm triệu” được dùng đúng chỗ: “Điềm lành hồng hạc đến cổ
thành trăm năm nay mới thấy. Lão vốn sinh trưởng nơi đây, chỉ nghe các cụ nói
ngày trước, khi Bố Cái Đại vương Phùng Hưng lên ngôi quân trưởng ở Tổng Bình, hồng
hạc mới xuất hiện, cũng chỉ có được bảy con. Nay mười mấy con hồng hạc từ trời
xanh bay đến ban điềm lành cho An Nam quả là vạn hạnh vậy” (tr 440). Đó là lời
một vị lão trượng nói với Ngô Quyền, không còn chỉ là “lời” mà còn là điềm báo,
là niềm tin, là ước mơ vào hoà bình vĩnh cửu…
Đòi hỏi về Ngô
Vương? Cần thêm những yếu tố thi pháp hiện đại, ví như “dòng ý thức” để
khám phá “con người bên trong con người”. Ta thấy những Ngô Quyền, Kiều Công Tiễn,
Lưu Hoàng Tháo… có phần đơn giản, trước sau vẫn là chính nó, thật dễ hiểu. Mà dễ
hiểu thì cần gì khám phá thêm. Tác giả dày công hơn đi phân tích những trăn trở,
những đau đớn, những đam mê… theo chiều sâu tâm thức thì nhân vật sẽ “thật” hơn
nhiều…
Ngô Vương cho ta một kinh nghiệm về tiểu
thuyết lịch sử là người viết phải
có quan điểm rõ ràng là nhân dân là người sáng tạo và
làm nên lịch sử. Nhà văn viết về bất cứ sự kiện lịch sử
nào cũng đều phải thấy nhân dân là lẽ phải, nhân dân là chính nghĩa. Nhân dân ủng
hộ ai, giúp ai, người ấy, lực lượng ấy sẽ thắng lợi và ngược lại. Ngô
Quyền được sự ủng hộ của chúng dân nên đã thành công. Tác phẩm về đề tài lịch sử là sự sáng tạo, hư cấu trên cái nền đã ổn định của sự kiện lịch sử và
nhân vật lịch sử. Nhà văn có thể tha hồ bay lượn trong không gian tưởng tượng
sáng tạo nhưng phải nhằm mục đích làm sáng tỏ hơn lịch sử, đem đến những cảm hứng,
làm giàu thêm vốn thẩm mỹ mới cho bạn đọc về lịch sử. Viết về Nguyễn Trãi hay
Lê Lợi nhà văn không nên lệ thuộc vào con số tỉ lệ bao nhiêu là thực bao nhiêu
là hư (ai mà thống kê cho rõ được), anh ta có thể hư cấu tới 80%, 90%, điều ấy
không quan trọng. Điều cơ bản là hư cấu làm sao để cho bạn đọc thấy đó vẫn là
Nguyễn Trãi, vẫn là Lê Lợi. Nghĩa là qua sáng tạo mới nhà văn phải làm cho bạn
đọc thêm hiểu, thêm yêu, thêm quý trọng nhân vật lịch sử, nếu đó là nhân vật
tích cực, chính diện và ngược lại. Ngô Vương
có nhiều sáng tạo nhưng đã khắc hoạ Ngô Quyền sinh động hơn, cụ thể hơn, hấp dẫn
hơn.
Một điều tối kỵ của tác phẩm về đề tài lịch
sử là làm sai lệch chân dung nhân vật của lịch sử, sai lệch sự kiện lịch sử.
Lịch sử, xét đến cùng là những gì đã đi qua được người hiện tại ý thức
lại. Những bài học lịch sử về đấu tranh chống ngoại xâm sẽ vô ích nếu không
làm đọng lại ở người học hôm nay về lòng yêu nước, yêu tự do, lòng kính trọng
cha ông đã dũng cảm kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự chủ cho nước nhà, từ đó mà
được tiếp thêm niềm tin, niềm tự hào để mà sống mạnh mẽ hơn, trung thực hơn,
chân chính hơn. Văn học cũng mang mục đích ấy. Nhà văn viết về quá khứ nhưng mục
đích là làm sao cho độc giả hôm nay nhận rõ thêm chân giá trị của ngày hôm qua,
để họ sống sao cho xứng đáng với lịch sử. Hãy cứ hình dung con đại bàng tác phẩm
về đề tài lịch sử được nâng bởi hai cánh sự thật và thẩm mỹ mà bay vào bầu trời
văn hoá đương đại và văn hoá tương lai! Ngô Vương
có thể chưa là đại bàng nhưng với tôi nó là cánh chim đưa tâm hồn tôi trở về với
thời Ngô Quyền đánh giặc để tôi thêm hiểu, thêm yêu, thêm tự hào lịch sử văn
hoá đất nước mình, dân tộc mình.
Nguồn: Văn Nghệ Công An