Ma Văn Kháng đã nói rằng, toàn bộ những truyện ngắn ông viết trong những năm 60, 70 của thế kỉ XX, đặc biệt những truyện viết về miền núi là những phế phẩm văn chương, ông rất xẩu hổ khi viết ra những tác phẩm này. Đây là một sự thừa nhận rất dũng cảm của một nhà văn lớn khi ta biết rằng, những tác phẩm của Ma Văn Kháng sau này viết về miền núi, kể cả truyện ngắn và tiểu thuyết, được coi là những phần đặc sắc nhất trong sáng tác của ông.
ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
UÔNG TRIỀU
Có ai quan tâm đến những tác phẩm đầu tiên và cuối cùng của các nhà văn không? Có phải tác phẩm đầu tiên thì non nớt và cuối cùng thì xuất sắc? Chưa chắc đã phải vậy và có rất nhiều những bất ngờ với những tác phẩm đầu tiên và cuối cùng của các nhà văn nổi tiếng. Khó ai hình dung được Franz Kafka, một trong những thiên tài văn học lớn nhất thế kỉ XX và có ảnh hưởng to lớn đến rất nhiều người mà tác phẩm đầu tay của ông là một tập truyện ngắn/đoản văn mỏng mảnh. Tập sách in năm 1912 chỉ với 800 cuốn và đến tận khi Kafka mất (năm 1924, nghĩa là hơn 10 năm sau khi xuất bản tập truyện ngắn này, tên tiếng Đức của nó là “Betrachtung” - Quan sát) vẫn chưa bán hết!
Còn với văn hào người Nga Dostoievsky, sự khởi đầu của ông thuận lợi hơn Kafka rất nhiều. Tiểu thuyết đầu tay của Dostoievsky là “Những kẻ bần hàn”, ngay khi được in dài kì trên báo đã được đánh giá cao và đặc biệt nhà phê bình văn học Nga nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ Belinsky đã dự đoán Dostoievsky sẽ trở thành nhà văn vĩ đại kế nghiệp Gogol. Nhờ sự thành công của tác phẩm đầu tay mà con đường văn nghiệp của Dostoievsky suôn sẻ hơn rất nhiều so với đồng nghiệp người Séc gốc Do Thái. Kafka sau khi chết đi mới được người ta công nhận tài năng của mình và sự lận đận của đời văn của ông phải chăng đã được dự báo từ tác phẩm đầu tay của mình?
Dostoievsky khởi đầu thuận lợi và kết thúc trong huy hoàng. “Anh em nhà Karamazov”, tác phẩm cuối cùng, đồng thời cũng là tác phẩm vĩ đại nhất của Dostoievsky. “Anh em nhà Karamazov” tập trung toàn bộ tài năng, trí tuệ và suy ngẫm về con người, xã hội, tôn giáo và tổng kết sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Dostoievsky là một trong những người rất hiếm hoi mà tác phẩm cuối cùng của đời mình lại lớn lao, kì vĩ nhất. Bởi vì ở cuối cuộc đời, khi bị những gánh nặng tuổi tác và những hào quang thời tuổi trẻ phủ bóng, người ta khó lòng vượt qua được chính mình nữa. Nhưng ở Dostoivsky, đó là sự phi thường. Ở tác phẩm cuối cùng, ông vẫn dữ dội và mãnh liệt, thậm chí hơn cả thời tuổi trẻ. Ở giai đoạn cuối của các nhà văn, ta thường thấy một kiểu ôn hòa và trầm lắng, sự khác biệt của Dostoievsky với các nhà văn khác chính là ở điểm này.
Sự khởi đầu rất dễ non nớt, điều này đúng với đa số các nhà văn. Ma Văn Kháng đã nói rằng, toàn bộ những truyện ngắn ông viết trong những năm 60, 70 của thế kỉ XX, đặc biệt những truyện viết về miền núi là những phế phẩm văn chương, ông rất xẩu hổ khi viết ra những tác phẩm này. Đây là một sự thừa nhận rất dũng cảm của một nhà văn lớn khi ta biết rằng, những tác phẩm của Ma Văn Kháng sau này viết về miền núi, kể cả truyện ngắn và tiểu thuyết, được coi là những phần đặc sắc nhất trong sáng tác của ông.
Nhà văn Pháp gốc Việt Linda Lê, một trong những cây bút nữ tiêu biểu của văn học Pháp đương đại cũng từng rất hối tiếc khi có những tác phẩm đầu tay non kém. Thậm chí, Linda Lê đã tuyên bố, bà chối bỏ những tác phẩm đầu tay của mình, trong đó có cuốn “Tình ca ác quỷ” xuất bản năm bà 23 tuổi và đã được dịch ra tiếng Việt.
Nhà văn không thừa nhận đứa con tinh thần đầu tiên, vì cho rằng nó rất yếu kém hoặc không giống với mình. Đây có thể là một thái độ rất cực đoan nhưng hành động của Linda Lê là rất đáng cảnh tỉnh khi các nhà văn trẻ cân nhắc khi cho in tác phẩm đầu tiên.
Cũng là giai đoạn đầu tiên nhưng những bài thơ Trần Đăng Khoa viết khi còn nhỏ tuổi lại được người ta nhớ nhiều. Những bài thơ thuở thiếu nhi của Trần Đăng Khoa được rất nhiều người thuộc và nhớ, trong khi những tác phẩm thơ sau này của ông không được thành công như vậy.
Khi nói đến Trần Đăng Khoa, người ta thường nhớ đến một “thần đồng” làm thơ thiếu nhi chứ không phải một nhà thơ trưởng thành của ngày hôm nay. Trong văn chương có một quy luật nghiệt ngã và bất tuân theo trật tự thời gian. Tác phẩm ban đầu có thể rất xuất sắc, các tác phẩm sau có khi không bao giờ có thể vượt qua nó, trong khi đó với đại đa số những người khác, đầu tiên nghĩa là non nớt, vụng dại…
Những nhân vật đặc biệt thường là những người chống lại được những quy luật đó, như Trần Đăng Khoa lúc tuổi trẻ và Dostoivsky lúc cuối đời. Tất nhiên vị thế của hai nhân vật này khác nhau, ý của tôi là thời điểm đầu tiên và cuối cùng của các nhà văn là rất khác biệt, không có một quy luật nào khái quát chung cho tất cả được.
“Phục sinh” là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Lev Tolstoy, ông xuất bản cuốn sách năm 71 tuổi. Mặc dù không kì vĩ, hoành tráng bằng “Chiến tranh và hòa bình” hay “Anna Karenina”, nó vẫn là một cuốn tiểu thuyết lớn, mang tư tưởng sâu sắc của nhà văn về cuộc sống, sự hối cải. Khác với Dostoievsky ở cuối đời vẫn vô cùng dữ dội và bạo liệt, Lev Tolstoy bình thản và tĩnh lặng hơn.
Mạc Ngôn, nhà văn Trung Quốc nhận giải Nobel văn học năm 2012 kể lại rằng, khi viết truyện ngắn đầu tay, ông đã cố gắng ca ngợi lãnh tụ theo xu hướng chung khi đó, nhưng rốt cục chất lượng tác phẩm dường như vẫn chưa đủ thuyết phục và không được đăng. Khi nhớ về chuyện đó, Mạc Ngôn nghĩ việc viết truyện ngắn đó rất buồn cười nhưng ông lại không cảm thấy xấu hổ như Ma Văn Kháng, ông thấy đó là hành trình cần thiết để có sự trưởng thành của mình.
Ông cho rằng sự yếu kém của buổi ban đầu là không thể tránh khỏi. Tất nhiên Mạc Ngôn vẫn còn đang viết, tác phẩm cuối cùng của ông là gì ta vẫn chưa biết, nhưng tôi dự đoán rằng ông khó vượt qua được những đỉnh cao ở thời sung sức trung niên của mình với những “Cao lương đỏ”, “Báu vật của đời”, “Đàn hương hình”… Những người có thể làm được như Dostoivsky là rất hiếm.
Đa số các nhà văn đều có những tham vọng với tác phẩm đầu tay của mình, nhưng sự thành công của chúng thường rất ít. Khi nghĩ hay nhớ về những chuyện đó, rất nhiều người đã nghĩ rằng mình không nên in hoặc viết những truyện đó.
Viết là quá trình của sự trưởng thành, đối với văn xuôi càng khắc nghiệt. Những bước đầu đời thường không đủ một kinh nghiệm về kĩ thuật và cảm xúc. Mọi thứ dễ bị trôi đi và cơ bản là thất bại. Sự khởi đầu thường dễ gây ra những ảo tưởng, nhất là khi nó được thành công sớm, cho nên đôi khi ta thấy những ngôi sao loé sáng của mùa đầu quả ngọt rồi lụi tàn quá nhanh, hoặc không đủ lực để đi tiếp con đường. Nhưng lại có ý kiến cho rằng, những tác phẩm xuất sắc của các nhà văn đều viết trước tuổi 40, tức là ở giai đoạn đầu. Đó là quan điểm của nhà văn người Anh gốc Nhật Bản Kazuo Ishiguro, người đoạt giải Nobel văn học năm 2017. Ông đưa ra các dẫn chứng: Kafka, Chekhov, chị em nhà Bronte, Jane Aussten… đều viết những tác phẩm xuất sắc của mình trước tuổi 40.
Lev Tolstoy viết “Chiến tranh và hoà bình” năm 37 tuổi và cả những Faulkner, Hemingway viết những tiểu thuyết xuất sắc nhất của mình trước tuổi 40. Ở Việt Nam, Vũ Trọng Phụng viết “Số Đỏ” khi 24 tuổi, Nam Cao viết “Chí Phèo” năm 24 tuổi, Nguyễn Tuân viết “Vang bóng một thời” năm 28 tuổi...
“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh viết năm 37 tuổi và tôi tin rằng, nếu ông có công bố một tiểu thuyết nữa thì nó cũng khó vượt qua được tiểu thuyết đầu tiên của mình. Sự mở đầu đôi khi tràn đầy hưng phấn và sáng tạo và có thể suốt quãng thời gian dài sau đó, người viết sẽ không bao giờ chạm đến hoặc xuất thần được nữa. Nghĩa là những tác phẩm lớn thường gần với điểm khởi đầu hơn là điểm kết thúc.
Một điều dường như trái với quy luật tự nhiên ở nghề viết là không phải tác phẩm sau sẽ hay hơn tác phẩm trước. Điều này dường như khác biệt với những ngành nghề lao động trí tuệ khác, ví dụ như dạy học và chữa bệnh. Càng tích lũy nhiều kinh nghiệm thì bác sĩ và thầy giáo càng chữa bệnh giỏi và giảng bài hay. Nghề văn thì không thế.
Khởi đầu có thể non nớt nhưng không có nghĩa rằng càng về sau người ta càng viết hay hơn. Tôi cho rằng cơ bản viết văn tuân theo quy luật hình sin, ban đầu thấp, lên cao, rồi tụt dần xuống. Có những nhà văn cả đời viết cần mẫn như Tô Hoài, Ma Văn Kháng, ở lúc gần chót cuộc đời vẫn cho ra được những tác phẩm đáng đọc, còn đa số dừng bút từ khá sớm, những tác phẩm viết sau thời sung sức thường mờ nhạt, không có nhiều sáng tạo.
Càng có tuổi con người ta càng trầm tĩnh và tư lự hơn, càng “biết sợ” hơn. Và chính sự “biết sợ” này nhiều khi thành lực cản, ngăn cản những bứt phá và càn lướt. Những tác phẩm ở giai đoạn gần với ban đầu khi sức sống còn mãnh liệt, khao khát còn dữ dội và người viết thường có một trạng thái “không biết sợ”. Tuổi trẻ có những lúc ngạo mạn và kiêu hùng, có lẽ đó cũng là phẩm chất mà những đứa con đầu đời hoặc thuộc giai đoạn ấy thường có những cách tân táo bạo.
Nhìn nhận lịch sử văn học thì ý kiến của Kazuo Ishiguro rất đúng với nhiều trường hợp, nhất là với các tiểu thuyết gia - khi mà đối tượng lao động của họ đòi hỏi nhiều sức lực cơ học, sự tập trung tinh thần và một cảm hứng dài lâu. Ta sẽ ít thấy những cuốn tiểu thuyết ở giai đoạn cuối đời xuất sắc.
Một nhà văn bạn tôi khi đã sang hẳn bên kia con dốc của cuộc đời anh mới in cuốn tiểu thuyết đầu tay, dù trước đó anh đã khá thành công với những thể loại khác như truyện ngắn, nhưng tôi cứ đợi mãi, đợi mãi mà chưa thấy cuốn thứ hai của anh. Hỏi thì anh trả lời, mình bắt đầu với tiểu thuyết muộn quá, sợ không còn đủ sức lực và tinh thần để đi hết với nó…
Quay lại với đề dẫn ban đầu, tôi vẫn nghĩ rằng văn chương luôn hấp dẫn và bất ngờ vì dường như nó có xu hướng chống lại những quy luật thông thường. Đầu tiên và cuối cùng thường không giống bất kì ngành nghề nào khác và những ai chống lại được những khác thường này, rất có thể đó là những người rất lớn và khác biệt…
Nguồn: Văn Nghệ Công An