Cuộc tranh giành quyền lực giữa Tào và Lưu
biến thành cuộc đua tranh giữa hai đường lối, đua tranh về đạo đức,
đua tranh về giá trị hạt nhân. Đằng sau chiêu bài “chính thống” là
“lá cờ đạo đức” giương cao. Bởi thế, hồi đầu tiên của “Tam Quốc diễn
nghĩa” không phải Đổng Trác vào Kinh mà là “kết nghĩa vườn đào”. Tác
giả đã cân nhắc rất kỹ vì có “kết nghĩa vườn đào” mới thể hiện
được chủ đề trung nghĩa. Tuy nhiên đó cũng chính là chỗ thất bại của
truyện.
Ai cũng biết thời Tam quốc, thiên hạ chia ba,
nước nào cũng muốn độc chiếm ngôi chúa tể và nước nào cũng có đúng
sai, đó là “bản tính của lịch sử”, nhưng đến Tam quốc diễn
nghĩa (TQDN) thì biến thành “tôn Lưu, biếm Tào”. Mấu chốt là vì
sao bộ truyện lại có khuynh hướng ấy?
Ý kiến chung cho rằng do “chịu ảnh hưởng của
tư tưởng chính thống”, song nếu chỉ tranh giành “chính thống” thì vị
tất cứ phải “tôn Lưu, biếm Tào”. Trần Thọ viết Tam quốc chí, cho
Tào Ngụy là chính thống song không hạ thấp Lưu Bị. Cũng như vậy, Tôn
Quyền không phải chính thống, La Quán Trung cũng không gọi ông ta là
“giặc Tôn”. Quan trọng hơn nữa, chính thống hay không, chẳng liên quan
gì đến bạn đọc thông thường; dân càng không quan tâm ai làm vua, chỉ
quan tâm vua có tốt hay không. Vua tốt thì nhân từ và sáng suốt. Vua
nhân từ thì dân dễ sống, vua sáng suốt thì quan dễ làm, tóm lại là
quan thanh liêm chính trực, dân an cư lạc nghiệp, thiên hạ thái bình.
Nếu vua, quan không nhờ vả được, dân phải trông cậy vào hiệp khách
“giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha”. Thế là hình thành ba giấc
mộng trong xã hội truyền thống: Mộ̣ng vua thánh, mộng quan thanh liêm
và mộng hiệp khách.
Ba giấc mộng này đã được La Quán Trung thực
hiện giùm: trong truyện, Lưu bị là vua thánh, Gia Cát Lượng là quan
thanh liêm, hiệp khách là Quan Vũ, Trương Phi, bởi thế, sử (Tam quốc
chí. Tiên chúa truyện) chép người đả Đốc Bưu là Lưu Bị được đổi
thành Trương Phi, nhân đó Lưu Bị cuống lên quát Trương Phi ngừng tay.
Sửa đổi này nhất cử lưỡng đắc: chứng tỏ Lưu Bị nhân từ, Trương Phi
nghĩa hiệp. Khéo hơn nữa là truyện còn có điển hình phản diện Tào
Tháo. Tào Tháo giết người nên là bạo chúa, Tào Tháo soán ngôi nhà
Hán nên là gian thần, Tào Tháo nói: “Ta thà phụ người chứ không để
người phụ ta”, đương nhiên là tiểu nhân! Tốt rồi, một bên là vua
thánh, quan thanh liêm, hiệp khách, một bên là bạo chúa, gian thần,
tiểu nhân, vậy còn gì phải nói nữa, tất nhiên là tôn Lưu, biếm Tào
thôi. Có được “định tính đạo đức” như vậy, thủ thuật “biến tính” mà
TQDN thực hiện mới thuận lý thuận tình, mọi người hể hả.
Mấu chốt vấn đề là ở đấy: cuộc tranh giành
quyền lực giữa Tào và Lưu biến thành cuộc đua tranh giữa hai đường
lối, đua tranh về đạo đức, đua tranh về giá trị hạt nhân. Đằng sau
chiêu bài “chính thống” là “lá cờ đạo đức” giương cao. Bởi thế, hồi
1 không phải Đổng Trác vào Kinh mà là “kết nghĩa vườn đào”. Tác giả
đã cân nhắc rất kỹ vì có “kết nghĩa vườn đào” mới thể hiện được
chủ đề trung nghĩa. Tuy nhiên đó cũng chính là chỗ thất bại của
truyện.
Trung
nghĩa: Quan Vũ
Quan Vũ là nhân vật Tam quốc được đời sau tôn
sùng nhất, đời Nguyên đã thành thần, sau đó thành thánh (Quan thánh
đế), được người hâm mộnhiều hơn cả Gia Cát Lượng. Hiển nhiên không phải
vì võ nghệ cao cường, so ra Quan Vũ không giỏi võ bằng Lã Bố. Trong
truyện, Quan Vũ được xây dựng thành nhân vật “trung nghĩa song toàn”.
Một mình một ngựa vượt ngàn dặm là trung, tha Tào Tháo ở Hoa Dung
đạo là nghĩa. Quan Vũ là điển hình trung nghĩa, là lá cờ trung
nghĩa, là mẫu mực trung nghĩa.
Thật ra, Quan Vũ cũng có lấn cấn, đó là bị bắt rồi đầu hàng. Ở
thời Tam quốc, chuyện đó cũng bình thường, nhưng sang đời Tống, quan
niệm có thay đổi : “Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là việc
lớn”. Thế là TQDN mượn Trương Liêu cứu nguy bằng biện pháp lấy trung
nghĩa đối kháng với trung nghĩa. Hồi 24, khi Quan Vũ toan tử
chiến ở Hạ Phì, Trương Liêu phân tích, nếu chết, Quan Vũ sẽ mắc ba
tội: phụlời sống thác có nhau với Lưu Bị, phụ lời phó thác bảo vệ
hai phu nhân của Lưu Bị, phụ nghĩa lớn là khuông phò nhà Hán. Bị
chụp ba cái mũ ấy, Quan Vũ toan chết vì trung nghĩa lại hóa ra “bất
trung bất nghĩa”. Thế là Quan Vũ quyết định “cứu nước theo đường
cong”, đầu hàng có điều kiện dưới tiền đề “hàng Hán không hàng
Tào”, sau đó trở về với Lưu Bị khi đã lập công giết giặc. Tào Tháo
thì sao? Ông ta chẳng những không ngăn cản mà còn đích thân tiễn đưa,
tặng lộ phí, tặng chiến bào, thông báo các quan ải không được ngăn
cản Quan Vũ. Lý do? Đó là “kính nể lòng trung nghĩa của Quan tướng
quân”.
Tào Tháo đối xử như thế có thể thật lòng
mến Quan Vũ, cũng có thể vì muốn để lại một món nợ tình cảm,
nhưng kết quả đối với Quan Vũ đều như nhau: “Tận trung với Bị, thất
nghĩa với Tào”. Bản thân Quan Vũ cũng chịu sức ép về tư tưởng, lo
ngại qua năm cửa ải chém sáu tướng sẽ bị Tào Tháo cho là “bất
trung, bất nghĩa”. Trung nghĩa phải được báo đáp bằng trung nghĩa, vì
thế mới có vụ “Hoa Dung đạo”. La Quán Trung cũng tự biết có lấn cấn
nên sắp xếp cho Gia Cát Lượng xí xóa bằng “Lượng đêm xem tượng Càn,
thấy giặc Tháo chưa đến lúc chết”.
Chủ đề trung nghĩa của TQDN đã sớm đổi màu,
“hàng Hán không hàng Tào” là chuyện nực cười, nhưng hầu như chẳng có
ai muốn mổ xẻ, trái lại chỉ tìm cách giải thích cho xuôi. Trước hết
khẳng định, nếu đầu hàng có điều kiện vẫn là “trung”; sau khi đầu
hàng lại trở về thì càng quí, là “đại trung”; thứđến khẳng định,
nếu đối phương tiếp nhận điều kiện thì là “nghĩa”; nếu giữ lời hứa
thì càng quí, là “đại nghĩa” và như vậy cần báo đáp.
Thế là Tào Tháo luôn bị mắng nhiếc là “tiểu
nhân bất nghĩa” thì ở hồi này xử sự đạt mức “nghĩa trùm trời xanh”
nên xứng đáng được Quan Vũ tha cho ở đường Hoa Dung.
“Cứu nước theo đường cong”, đầu hàng có điều kiện mà vẫn là trung
nghĩa, thế là người ta có cửa sau để ra, có đường lùi để thoát.
Nhưng không có trung nghĩa thìTQDN không có linh hồn, còn lại chỉ là
mưu mẹo quyền biến.
Mưu
mẹo quyền biến: Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng trong sử là một nhân vật chính
phái. Ông hết lòng vì thiên hạ, lo nước lo dân, cúc cung tận tụy,
lòng trung ngời ngời, chính trực liêm khiết, giữ mình vì việc công,
khiêm tốn thận trọng, lấy thân làm mẫu, thực sự cầu thị, tuân thủ
luật pháp. Một người như thế quả thật đáng để chúng ta kính trọng.
Nhưng trong TQDN, những phẩm chất như thế lại đi đôi với quyền mưu (mưu
mẹo ứng biến). Trong sử (Tam quốc chí. Gia Cát Lượng truyện), Gia Cát
Lượng cả đời giữ mình cẩn thận, “mưu mẹo ứng biến không phải là sở
trường của ông”, cho nên Lưu Bị đánh trận không mang theo ông. Khi đánh
Hán Trung, mang theo Pháp Chính, đánh Ích Châu mang theo Bàng Thống.
Bàng Thống là người khá vô sỉ, Lưu Chương nghĩ tình anh em, mời Lưu
Bị vào Ích Châu giúp mình chống Tào, Bàng Thống đã khuyên Lưu Bị
chiếm luôn lấy Ích Châu. Lưu Bị lưỡng lự thì Bàng Thống nói: “Khi
nào thành công sẽ phong cho Lưu Chương một nước to khác thì có việc
gì mà chẳng tín nghĩa?” (Hồi 60).
La Quán Trung còn gán nhiều sự việc khác cho
Bàng Thống (như hiến kế liên hoàn) và còn theo mẫu Bàng Thống “chỉnh
dung” cho Gia Cát Lượng. Thí dụ điển hình nhất là “tam khí Chu Du”.
Đương nhiên đây là việc không có và không thể có trong sử. Nhưng không
hề gì, có thể hư cấu. Vấn đề là bịa thì cũng phải bịa cho hay. Có
hay không? Nếu nói hấp dẫn thì quả thật rất hay, nhưng nếu nói về
phẩm cách thì quả thật chẳng hay. Đúng như học giả Hồ Thích từng
nhận xét, trong TQDN, “Chu Du phong lưu nho nhã bị viết thành kẻ tiểu
nhân đố kỵ, nham hiểm”, còn Gia Cát Lượng bị viết thành “kẻ tiểu
nhân xảo quyệt, gian trá” (Tựa Tam quốc chí diễn nghĩa). Về Chu Du,
thôi thì cho qua, nhưng về Gia Cát Lượng thì thành vấn đề lớn, bởi
TQDN giương cao lá cờ đạo đức. Là nhân vật nam số một, Gia Cát Lượng
làm sao có thể là tiểu nhân được? Nếu Du, Lượng đều là tiểu nhân
thì cuộc đấu giữa họ chẳng hóa ra “chó cắn chó, mõm đầy lông” hay
sao?
Nhưng Gia Cát Lượng “tam khí Chu Du” có phải
là tiểu nhân không ? Đúng là tiểu nhân, hơn nữa là tiểu nhân đắc chí.
Hãy nghe ông ta sai quân lính hô câu gì? Hô “Chu lang mẹo giỏi yên thiên
hạ, đã mất phu nhân lại thiệt quân”. Đấy không phải cuộc đọ trí mà
là cố ý sỉ nhục người. Anh hùng chân chính đều thương tiếc người
tài, tiêu diệt đối phương bằng âm mưu quỷ kế thì bản thân chẳng đáng
gọi là anh hùng. Chỉ cần so sánh với việc Tào Tháo đối xử với Quan
Vũ là đủ thấy cao thấp chênh nhau đến mức nào.
Đó không phải là Gia Cát Lượng được người
đời sùng bái, chỉ có thể là “hàng nhái” do “hủ nho” tạo ra theo mẫu
Bàng Thống. Cho nên khi “hàng nhái” rỏ nước mắt cá sấu thì Bàng
Thống xuất hiện, cả hai cười ha hả, “dắt tay nhau lên thuyền nói
chuyện”(Hồi 57).
Bại bút của TQDN là biến “thánh nhân” thành
“tiểu nhân” do tác giả muốn “quyền mưu hóa” Gia Cát Lượng. Quyền mưu
kết hợp với ngụy thiện thì hại người càng lắm, vậy mà Gia Cát
Lượng trong TQDN đúng là nhân vật như thế.
Hãy xem Gia Cát Lượng trong “tam cố thảo lư”.
Ba lần đến lều cỏ là chuyện có thật, song quá trình cụ thể ra sao,
sử không chép. TQDN hư cấu việc này rất hấp dẫn, nhưng nếu ai tinh ý
ắt thấy những cuộc “kỳ ngộ” của Lưu Bị ở Long Trung, từ nông dân
biết hát, chú tiểu đồng đến ẩn sĩ và cha vợ đều do Gia Cát Lượng
dưới bút tác giả sắp đặt, chẳng qua để biến thị trường bên mua
thành thị trường bên bán, khiến Lưu Bị phải mua với giá cực cao. Hơn
nữa, Gia Cát Lượng “thường tự ví mình với Quản Trọng, Nhạc
Nghị”(*), từng chê bốn người bạn nếu có “làm quan, chỉ làm đến
thứsử, quận thủ là cùng” (Hồi 37), vậy mà khi nghe Từ Thứnói
đã tiến cử mình lại “ra vẻ giận, nói: Thế ra ngươi coi ta như là vật
dùng để cúng tế, có phải không ?”(Hồi 36). Gia Cát Lượng chân chính
lẽ nào lại giả dối như thế? Thật ra, giả dối không phải của một
mình La Quán Trung mà là giả dối tập thể của cả lứa nhà nho thời
trước. Họ muốn làm quan nhưng vẫn muốn lấy mẽ, mơ tưởng cao ngạo
ngồi nhà để vua đến mời, mời đến ba lần; sau khi “xuống núi”, nói
gì vua cũng nghe, ân sủng không ngớt, vinh gia hiển tổ. Đó là “giấc mộng
kê vàng” của rất nhiều người.
Những chỗ quyền mưu đi đôi với ngụy thiện như
thế có không ít trong TQDN, ví như Lưu Bị quăng A Đẩu, Lưu Bị đưa dân
cả thành đi theo (Hồi 41) v.v...
Tóm lại, dù là một trong bốn kỳ thư nổi tiếng
thế giới, TQDN để lại cho chúng ta một lá cờ đáng ngờ: trung nghĩa
và hai viên thuốc có chất độc: ngụy thiện, quyền mưu. Những viên
thuốc như thế, dù được bọc đường, chúng ta không thể uống mãi; lá
cờ như thế, dù được thêu hoa văn rồng phượng, chúng ta cũng không thể
tiếp tục giương cao.
PHẠM TÚ CHÂU
(Trích thuật từ bài “Chứng bệnh về tư
tưởng chủ đề của Tam quốc diễn nghĩa” của Dịch Trung Thiên, GS
khoa Văn trường Đại học Hạ Môn, nhà văn)