Trường trung học tư thục là trường do tư nhân bỏ tiền ra thuê mặt bằng, mướn giáo ban, phải đóng thuế và chưa bao giờ có cái tên mỹ miều là xã hội hóa, dân lập như ngày nay. Trường trung học tư xuất hiện là để đáp ứng nhu cầu cần học của nhiều học sinh thi không đâu vào trường công lập cũng như dành cho những người đã qua tuổi thi vào trường công lập theo quy chế trường tư thục được ban hành theo dụ số 57/4 ngày 23/10/1956 . Theo quy chế nầy trường tư thục trung, tiểu và đại học chỉ cần được Bộ Trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục hay Giám đốc Nha học Chánh Địa phương được bộ ủy quyền cấp phép.




NGÀY XƯA CÓ NGÔI TRƯỜNG TƯ

LÊ VĂN NGHĨA

Thèm bánh ướt, tôi chạy đến xe bánh ướt nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan vẫn còn được mang cái tên cũ mà lứa tuổi của chúng tôi hay nhắc đến: bánh ướt Tân Văn. Tân Văn không  phải là tên một con đường mà là tên của một trường trung học tư thục mà xe bánh ướt bán trước cổng trường. Vâng, đó là trường trung học tư thục Tân Văn. Và ngôi trường đó đã một thời nằm trong chính ngôi biệt thự Phương Nam ở góc đường Võ Văn Tần, Bà Huyện Thanh Quan sắp được trùng tu đến từng chân tơ , kẽ tóc cho xứng đáng với sự hoành tráng của nó về mặt không gian và thời gian.

Trường Tân Văn là một trường trung học tư thục nằm trong hệ thống trường trung học tư thục khắp Sài gòn và miền nam ngày trước. Có lần tôi đã học luyện thi Toán Lý Hóa , đứng trên tầng lầu hai của trường nầy, không như nhà thơ Hoàng Trúc Ly “nằm mộng thấy nữ sinh” mà tôi thấy cả… tá những tà áo dài phấp phới sân trường giờ ra chơi…  “Ô hay con gái bay nhiều quá/ Hai cánh tay mềm như cánh chim”. Có bất công lắm không khi kể về chuyện đi học ngày xưa chỉ nhắc đến những trường công lẫy lừng như Petrus Ký, Gia Long, Trưng Vương, Chu Văn An, Võ Trường Tỏan. Mạc Đĩnh Chi …mà không đề cập đến những trường trung học tư thục khi mà hệ thống trường tư thục đã giải quyết cho xã hội một số lượng lớn học sinh không thi đậu vào trường công.

 Trường trung học tư thục là trường do tư nhân bỏ tiền ra thuê mặt bằng, mướn giáo ban, phải đóng thuế và chưa bao giờ có cái tên mỹ miều là xã hội hóa, dân lập như ngày nay. Trường trung học tư xuất hiện là để đáp ứng nhu cầu cần học của nhiều học sinh thi không đâu vào trường công lập cũng như dành cho những người đã qua tuổi thi vào trường công lập theo quy chế trường tư thục được ban hành theo dụ số 57/4 ngày 23/10/1956 . Theo quy chế nầy trường tư thục trung, tiểu và đại học chỉ cần được Bộ Trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục hay Giám đốc Nha học Chánh Địa phương được bộ ủy quyền cấp phép.  Học Sinh chỉ cần đóng tiền là có thể vào học trường tư và sau một thời gian có thể chuyển trường theo ý mình thích miễn là có học bạ chứng minh là mình đã học xong lớp nào đó ở trường tư cũ. Có những học sinh giỏi, từ trường tư có thể thi đậu trung học đệ nhất cấp, hay tú tài 1 với điểm số cao để vào học ở những trường công lập. Điều nầy có nghĩa là từ là học sinh giỏi trường tư có thể trở thành học sinh trường công.

Bởi vậy, khi cho con vào học trường tư, các bậc cha mẹ thường chọn cho con những ngôi trường danh tiếng. Nếu là gia đình công giáo, họ sẽ cho con vào những trường như Lasan Taberd (nam) Lê Bảo Tịnh và Nguyễn Bá Tòng hay Thánh Linh, Couvent des Oiseaux, Regina Pacis, Regina Mundi  (nữ). Tổng Giáo Hội Thiên Chúa giáo sở hữu 226 trường trung học và 1030 trường tiểu học tư thục. Còn cha mẹ là phật tử thường chọn cho con theo học hệ thống trường Bồ Đề. Tính đến năm 1970 toàn miền nam có 137 trường Bồ Đề. (*)Ngoài ra còn những trường trung học tư thục do những cá nhân là nhà giáo tổ chức. Những trường có tiếng như Trường Sơn ( hiệu trưởng là nhà văn Nguyễn Sỹ Tế), Văn Học (hiệu trưởng là nhà thơ Nguyên Sa-Trần Bích Lan), Phan Sào Nam, Tân Văn-Tân Việt, Hưng Đạo, Huỳnh Khương Ninh, Văn Hiến (Trần Quang Khải)…Những trường tư nầy có tiếng là kỷ luật nghiêm minh còn có một giáo ban hùng hậu. Thành phần giáo sư được chọn lọc từ những giáo sư trường công có tiếng lúc đó, dạy hết sức tận tâm và có trách nhiệm. Giáo sư Huỳnh Như Phương kể “tôi học trường công Trần Quốc Tuấn ngoài quê  năm lớp 10, vô Sài Gòn  thi bằng tú tài phần thứ nhất (không học lớp 11), nên lên 12 phải học TH Trường Sơn. Không hiểu sao tôi học TH Trường Sơn chỉ có một năm mà có nhiều ấn tượng và kỷ niệm đẹp. Có lẽ là nhờ quý thầy giáo: Nguyễn Sỹ Tế, Lê Trung Nhiên, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Xuân Hoàng, Trịnh Chuyết , Lê Thế Thụ, Tô Đáng, Bùi Văn Hiệp...” Ngoài ra, một điều cần ghi nhận là “trường tư thục thu học phí để đảm bảo hoạt động, nhưng có sự cạnh tranh giữa các trường và có cả tự thục tôn giáo nên mức thu học phí thấp, tạo điều kiện cho học sinh con em lao động nghèo vẫn đi học được” (*)
Tuy vậy, một khiếm khuyết của hệ thống trường tư lúc đó là chủ trường của một số trường tư thục nhỏ là những nhà kinh doanh, không kinh nghiệm giáo dục  nên chọn thành phần giáo ban rất là ý…ẹ. Họ thuê những SV đang đi học năm thứ nhứt, thứ hai đi dạy cho lớp đệ thất, đệ lục…mà hoàn toàn không có một chút phương pháp sư phạm.   Trong tác phẩm “Ngôi Trường Đi Xuống”(in trước 75 tại Sài gòn)  nhà văn Vũ Hạnh đã khái quát gương mặt các chủ trường nầy như những tay buôn chữ nghĩa như buôn hàng Mỹ. Từ những chủ trường nầy mới có những người mang danh “giáo sư” nhưng đi cua học trò, rồi bị nam sinh đánh tơi bời hoa lá hẹ. Chuyện học trò đánh thầy hoặc thầy “cua” nữ sinh không phải là chuyện không có trong những trường tư thục . Nhà văn Duyên Anh trong truyện dài “Ngựa Chứng Trong Sân Trường” đã viết về tệ nạn nầy để lên án một nền giáo dục tư thục chạy theo đồng tiền mà bỏ quên tất cả những quy tắc đạo đức, những người mang danh nhà giáo nhưng rất… tà giáo tại những ngôi trường tư thục rất là “kỳ lục cục” nầy…

Những trường tư thục loại nầy không tồn tại được lâu dài vì phụ huynh thường chọn trường để gửi những tháng năm quý giá tuổi học trò cho con em mình. Và ngay cả học sinh cũng vậy. Nếu là học sinh Lasan Taberb hay Văn Học, Tân Văn, Tân Việt, Hưng Đạo, Trường Sơn…sẽ tự hào hơn những học sinh của một trường tư với cái tên lạ hoắc. Tỷ lệ thi đậu tú tài bán và toàn phần (tương đương tốt nghiệp lớp 11 và 12 bây giờ) của các trường có tên tuổi vẫn cao hơn các trường tư thục vô danh. Tuy nhiên,nói gì thì nói,  nhìn một cách tổng thể hệ thống trường trung học tư thụ hàng năm đã giải quyết được đa số học sinh không thi đậu vào được trường công. Số liệu năm 1971 cho biết hệ thống trường trung học tư thục đã giải quyết cho 77,6% học sinh toàn miền nam không được trường công dạy dỗ. (*)

Bây giờ đi ngang khu vực trường Tân Văn chỉ nhớ bạn Lê Hoàng , trường Trường Sơn nhớ ông Hội Đồng TP quá cố Nguyễn Thanh Chính , giáo sư Huỳnh Như Phương ,trường Huỳnh Khương Ninh nhớ nhà thơ Trương Chính Tâm …cùng những người bạn khác. Những ngôi trường tư ngày xưa đã mất đi nhưng những người học sinh tuổi xanh ngày xưa cũng ít nhiều đóng góp sự nghiệp mình cho mảnh đất Sài gòn khi trưởng thành . Học sinh trường tư cũng đâu có thua gì học sinh trường công đâu há!


(*) Giáo dục Phổ Thông Miền Nam (1954-1975) –do Ngô Minh Oanh chủ biên. (NXB Tổng Hợp TPHCM-2018)