Dần dần báo chí bị lôi vào cuộc và hình thành hai
phe rõ rệt. Phe bênh vực thơ cũ có các báo: An Nam tạp chí, Văn học tạp
chí, Văn học tuần san, Công luận, Tiếng dân, Tin văn… Phe
bênh vực thơ mới có: Phong hóa, Ngày nay, Phụ nữ Tân văn, Tiểu
thuyết Thứ bảy, Loa, Hà Nội báo… Trong số này, báo Phong
hóa là “hùng hổ” nhất. Và nhóm Tự Lực Văn Đoàn vốn chủ trương theo mới dĩ
nhiên đứng vào hàng ngũ của những nhà thơ mới. Tản Đà lúc đầu rất thận trọng,
có ý muốn đứng ngoài. Tuy chẳng ưa gì thơ mới nhưng ông không để cơ quan ngôn
luận của mình là tờ An Nam tạp chí tấn công thơ mới.
Chung quanh cuộc bút chiến giữa hai phái thơ cũ và
thơ mới - Những chuyện vui bên lề cuộc bút chiến
HUYỀN VIÊM
Tôi không có ý định kể lại toàn bộ cuộc bút chiến giữa
hai phái thơ cũ và thơ mới diễn ra từ năm 1932 và những năm sau đó vì câu chuyện
quá dài, không hợp với khuôn khổ của một bài báo. Tôi chỉ muốn kể lại những
chuyện vui vui bên lề cuộc tranh luận ấy, để các bạn trẻ không sống vào thời đó
hoặc không sẵn tư liệu trong tay có thể hiểu được phần nào câu chuyện.
Năm 1932 được xem như là cái mốc của phong trào Thơ
mới vì năm ấy cụ Phan Khôi đưa ra “trình chánh” giữa làng thơ bài thơ mới đầu
tiên làm xôn xao dư luận: bài thơ Tình già đăng trên báo Phụ nữ
Tân văn số 122 ngày 10-3-1932. Thế là bùng lên một phong trào chống đối
thơ mới từ những nhà cựu học.
Điều đáng chú ý là Phan Khôi (1887-1959) - cháu ngoại
của cụ Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu - vốn xuất thân là nhà cựu học, đã từng đỗ tú
tài chữ Hán năm 18 tuổi nhưng lại cổ vũ cho phong trào Thơ mới.
Sau khi bài thơ Tình già xuất hiện trên
báo, phái thơ cũ phản ứng mạnh mẽ. Thi sĩ Tùng Thành viết bài thơ Nhàn
ngâm đả kích nặng nề:
Trách bác Phan Khôi khéo rắc rối,
Noi gương Hồ Thích(*) làm thơ mới
Câu dài, câu ngắn chẳng ra sao,
Vần đụp, vần đơn nghe thật thối.
Sau Phan Khôi, hàng loạt nhà thơ mới có tài bắt đầu
xuất hiện trên thi đàn làm cho địa vị của thơ mới ngày càng vững: Thế Lữ (tức
Lê Ta), Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp… Trước
tình hình ấy, phái thơ cũ không tiếc lời chỉ trích, chê bai thơ mới:
Nghĩa lý vơ vơ rồi vẩn vẩn,
Thanh âm ngẩn ngẩn lại ngơ ngơ.
So với Á học như dưa đắng,
Sánh với Âu văn tựa mít xơ…
Họ cho rằng những người làm thơ mới đều bất tài,
không làm nổi thơ luật nên mới phải làm thơ mới là một loại thơ dễ dãi về kỹ
thuật, đó là những người chẳng hiểu gì về thơ cả.
Dần dần báo chí bị lôi vào cuộc và hình thành hai
phe rõ rệt. Phe bênh vực thơ cũ có các báo: An Nam tạp chí, Văn học tạp
chí, Văn học tuần san, Công luận, Tiếng dân, Tin văn… Phe
bênh vực thơ mới có: Phong hóa, Ngày nay, Phụ nữ Tân văn, Tiểu
thuyết Thứ bảy, Loa, Hà Nội báo… Trong số này, báo Phong
hóa là “hùng hổ” nhất. Và nhóm Tự Lực Văn Đoàn vốn chủ trương theo mới dĩ
nhiên đứng vào hàng ngũ của những nhà thơ mới.
Tản Đà lúc đầu rất thận trọng, có ý muốn đứng ngoài.
Tuy chẳng ưa gì thơ mới nhưng ông không để cơ quan ngôn luận của mình là tờ An
Nam tạp chí tấn công thơ mới. Mãi đến cuối năm 1932, thấy báo Phong
hóa làm quá, ông mới cho đăng lên báo An Nam tạp chí số 6 một
bài thơ khuyên Phong hóa, nhưng tuyệt nhiên không đề cập gì đến thơ mới cả:
Ông Tản Đà nhắn bạn Phong hóa
(Tửu nhập thi xuất)
Mấy lời nhắn bảo anh Phong hóa,
Báo đến như anh thật láo quá!
Từ tháng đến năm không ngớt mồm,
Sang năm Quý Dậu (1933) phải kiếm khóa.
Ông Nỉnh ông Ninh có liệu mà…
Tái tứ tái tam đừng trách nhá!
Chút tình đồng nghiệp bảo cho nhau,
Nhờ gió thổi đi mong cảm hóa.
Gặp dịp tốt, lập tức báo Phong hóa số 28
(30-12-1932) phản ứng ngay bằng cách đăng bài họa nguyên vận để đả kích Tản Đà:
Anh lên giọng rượu khuyên Phong hóa,
Sặc sụa hơi men khó ngửi quá.
Đã dạy bao lần, tai chẳng nghe,
Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa.
Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu,
Lưỡi ngắn thì nên co lại nhá!
Phong hóa mà không hóa nổi anh,
Túy nhân quả thật là nan hóa!
Sau bài thơ họa nguyên vận trên đây, báo Phong
hóa còn đăng nhiều bài đả kích Tản Đà vì coi Tản Đà là lãnh tụ của phái
thơ cũ, như bài Ông Hiếu với thầy Nhan Hồi của Tứ Ly (Hoàng Đạo), bài
thơ của Vân Dương nói xỏ xiên Tản Đà, vở hài kịch Tuồng cổ tân thời của
Tứ Ly chế giễu không chỉ Tản Đà mà cả các ông Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Văn Vĩnh,
Nguyễn Tiến Lãng, Dương Bá Trạc, Nguyễn Công Tiến, Trịnh Đình Rư, Lê Công Đắc…
là những nhà văn, nhà thơ cũ.
Năm 1934, khi cuộc bút chiến đã đến hồi gay gắt,
trên báo Phụ nữ Tân văn số xuân năm ấy, Tản Đà có một bài “hài đàm”
nói móc Phan Khôi vốn là người đã từng “đụng độ” với ông mấy lần về vụ Nho
giáo, vụ “Cái cười của con Rồng cháu Tiên”. Bài hài đàm mở đầu bằng một đoạn
văn xuôi rồi kết thúc bằng một bài “thơ mới”:
Đờn là đờn
Thơ là thơ
Thơ thời có chữ, đờn có tơ
Nếu không phá cách, vứt điệu luật
Khó cho thiên hạ đến bao giờ
Bá Nha xa
Lý Bạch khuất
Thơ có họ Phan, đờn họ Quách
Thơ có chữ
Đờn có tơ
Đờn thì ngớ ngẩn, thơ vẩn vơ
Tài tử văn nhân nhường rứa rứa
Bút huê ngao ngán bận đề thơ
Không thấy Phan Khôi trả lời. Điều đáng chú ý là tờ Phụ
nữ Tân văn trước nay vẫn đứng về phe bênh vực thơ mới, đã từng đăng bài
thơ Tình già của Phan Khôi mà nay lại đăng bài của Tản Đà móc Phan
Khôi.
Các nhà thơ mới thường hay chê các nhà thơ cũ ưa
dùng những từ ngữ và hình ảnh cũ kỹ sáo mòn: hễ mùa xuân thì trăm hoa đua nở,
mùa hạ có tiếng quốc tiếng ve, mùa thu thì sương sa gió thổi, lá ngô đồng rụng,
mùa đông thì tuyết phủ, tuyết ngậm mặc dù ở Việt Nam chẳng bao giờ có tuyết.
Nhân Tản Đà cho đăng bài Cảm thu, tiễn thu trong đó có những chữ:
gió thu hiu hắt, sương thu lạnh, lá thu rơi rụng đầu ghềnh, cỏ vàng cây đỏ…, Tú
Mỡ bèn làm một bài hát nói khôi hài để chế giễu lối làm thơ sai sự thực, trong
đó có mấy câu:
Cây tươi tốt, lá còn xanh ngắt,
Bói đâu ra lác đác lá ngô vàng.
Trên đường đi nóng rẫy như rang,
Cảnh tuyết phủ mơ màng thêm quái lạ!
Phong trào Thơ mới lên rầm rộ, lấn át hẳn thơ cũ, chiếm
địa vị ưu thắng trên thi đàn. Thơ mới đăng báo mỗi ngày một nhiều, nhưng bên cạnh
những bài thơ hay cũng có không ít những bài thơ dở, thật là vàng thau lẫn lộn.
Khái Hưng, một cột trụ của báo Phong hóa - tờ báo nhiệt liệt bênh vực
thơ mới - có bài đăng trên báo này đả kích những người làm thơ mới quá dễ dãi với
mình, cho ra đời những đứa con thiếu tháng:
Gặp vần là tôi tự do xuống dòng, bất kỳ câu ngắn
Hay dài, từ một đến mười hai chữ
Như thế hẳn
Chẳng khó khăn gì
Mà bỗng mình trở nên một nhà thiSĩ
Trong khi đó, nhà thơ Thế Lữ không tranh luận ồn ào,
chỉ cặm cụi làm thơ và cho ra đời những bài thơ hay, có chất lượng rất cao
như: Nhớ rừng, Tiếng sáo Thiên thai, Giây phút chạnh
lòng…, xây dựng một nền tảng vững chắc cho thơ mới.
***
Cuộc bút chiến ấy kéo dài đến năm 1936 thì nhạt dần
rồi tàn hẳn. Thơ mới nghiễm nhiên chiếm ưu thế trên thi đàn.
Nhưng khi thơ mới đã thắng thế rồi, người ta bắt đầu
nghĩ lại và cảm thấy ân hận về những điều đã làm trước đó. Trước kia, ai nấy đều
đổ xô vào mỉa mai, châm biếm, chế giễu Tản Đà thì từ năm 1938, Tản Đà được coi
như vị thánh sống của làng thơ. Nhất là sau khi Tản Đà từ trần (1939), người ta
đua nhau viết bài ca tụng ông như là người có công rất lớn đối với nền thi ca của
dân tộc. Và Hoài Thanh, khi viết cuốn Thi nhân Việt Nam, đã kính cẩn đặt Tản
Đà ở đầu sách với những lời cung chiêu trang trọng:
Anh em ở đây, tuy người sau kẻ trước, nhưng ai nấy đều
là con đầu lòng của thế kỷ hai mươi. Trên hội Tao đàn, chỉ tiên sinh là người của
hai thế kỷ. Tiên sinh sẽ đại biểu cho một lớp người để chứng giám công việc lớp
người kế tiếp. Ở địa vị ấy, còn có ai xứng đáng hơn tiên sinh.
…Đôi bài thơ của tiên sinh ra đời từ hơn hai mươi
năm trước đã có một giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu
cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa…”.
Ngay cả nhóm Tự Lực Văn Đoàn trước kia công kích Tản
Đà là thế mà nay cũng cho đăng nhiều bài của Văn Bình, Xuân Diệu, Khái Hưng
trên báo Ngày nay ca tụng công lao và sự nghiệp văn chương của Tản
Đà. Cái tinh thần hòa giải ấy đã dần dần xóa đi sự hiềm khích giữa hai phái thơ
cũ và thơ mới.
Từ đó đến nay cũng đã hơn 80 năm, thơ mới ngày ấy
nay đã trở thành thơ cũ. Một thời đại trong thi ca đã khép lại, nhưng dư âm của
những ngày sôi động ấy hẳn sẽ còn vang vọng mãi trên thi đàn.
_____
(*) Hồ Thích (1891-1962): nhà trí thức nổi tiếng của
Trung Hoa đã từng du học ở Mỹ và suốt đời nỗ lực vận động cho nền tân văn học.
Nguồn: Hồn Việt