Có lẽ với Quang Dũng, những gì ông vẽ chỉ là thay cho cảnh vật yêu quý và thỏa mãn tính ưa ngao du của ông. Chỉ một cánh buồm xơ xác, một cánh hoa gạo đỏ, một bóng người liêu xiêu nơi lối mòn nơi biên giới… cũng đã làm trái tim thi nhân của ông rung động và ngay lập tức nó phải được ghi lại, lưu lại… Trong hội họa, lối vẽ do ngẫu hứng này nhiều khi buông bỏ chi tiết nên dễ gây cảm giác “chưa hoàn thiện” với người thưởng lãm … Nhưng với ông - một thi nhân khao khát thiên nhiên thì việc mơ mộng còn cần thiết hơn là sa vào những lí thuyết cao vời, mông lung mà rồi cũng không cảm nhận được vẻ đẹp tự nhiên đầy mới lạ nơi thiên nhiên kì thú.




QUANG DŨNG LÀM THƠ BẰNG… HỘI HỌA

TÔ CHIÊM

Nhà thơ Quang Dũng sinh năm 1921 (có tài liệu ghi năm 1918), quê ở huyện Đan Phượng, xưa kia thuộc phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây, nay đã thuộc về Hà Nội. Tên khai sinh của ông là Bùi Đình Diễm, tên cúng cơm là Dậu, vì sinh năm Tân Dậu - 1921. Quang Dũng chịu sự ảnh hưởng lớn của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và văn học lãng mạn Pháp như rất nhiều thanh niên thời đó. Ông từng nói: “Tôi yêu thơ và làm thơ hoàn toàn ngẫu nhiên. Thời đi học tôi rất mê Đường Chi tam bách thủ, nhất là những bài dịch của nhà thơ Tản Đà. Tôi cũng say Thơ mới như bất cứ một học sinh nào thời đó. Nhưng tôi thích thơ Thế Lữ hơn cả, đặc biệt bài "Nhớ rừng", bởi tâm trạng sơn dã của nó. Một nhà văn nữa là Thạch Lam. Thạch Lam không chỉ viết văn mà còn dịch những bài thơ văn xuôi của Pháp. Và có lẽ tôi tiếp thu được gì ở thơ ca Pháp ngày ấy, cũng do đọc các bản dịch này...”.
Yêu văn nghệ, yêu cái đẹp, thời thanh niên ông từng đánh đàn, kéo nhị cho một gánh hát, và đã sáng tác nhiều bài tân nhạc nhưng thất lạc cả, nay chỉ còn lưu giữ được bài “Ba Vì mờ sao”. Nhiều người cùng thời kể rằng:  Quang Dũng là một người văn võ toàn tài: Viết văn, làm thơ, đàn hay, võ giỏi… thi họa đủ cả.
Năm 1945, ông tham gia Cách mạng Tháng 8, sau đó gia nhập Trung đoàn Thủ đô tham gia chiến đấu bảo vệ Hà Nội với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” bi hùng. Khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội, Quang Dũng là phái viên Phòng Quân vụ Bắc Bộ, theo học một khóa quân sự tại Tông (Sơn Tây), rồi gia nhập đoàn quân Tây Tiến, chiến đấu nơi miền rừng núi biên giới Việt - Lào. 
Khi Trung đoàn Tây Tiến giải thể vào năm 1948, Quang Dũng lúc ấy là Đại đội trưởng, về dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III ở làng Phù Lưu Chanh (tên một tổng của Hà Nam thời Pháp). Ở nơi này, ông đã làm bài thơ “Tây Tiến” và rất nhanh bài thơ này được lan truyền rộng rãi, không chỉ bằng sách, báo mà chủ yếu là truyền miệng. “Tây Tiến” nổi tiếng bao nhiêu thì cũng ám ảnh ông tới mãi sau này… bởi  “đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”. 
Câu nói “Thi trung hữu họa” của người xưa khi vận vào Quang Dũng thì thật là chuẩn xác. Ở con người thi sĩ Quang Dũng, hội họa luôn song hành, mỗi bài thơ ông viết, hoặc chép ra ở sổ tay đều có vài hình minh họa đi kèm. Quang Dũng tự làm bìa, tự minh họa cho những bài thơ, bút kí, cuốn sách của mình. Phải chăng ông luôn mong muốn các tác phẩm của mình có được sự  hòa quyện tuyệt đối như trái tim ông cảm nhận. 
Theo kể lại, thì máu mê hội họa trong Quang Dũng không kém gì thi ca và có lẽ ông bắt đầu vừa vẽ vừa làm thơ cùng lúc. Nhạc sĩ, họa sĩ Nguyễn Đình Phúc - tác giả ca khúc "Tiếng đàn bầu" kể: “Năm 1943, khi tôi đang vẽ bức tranh "Đứa trẻ lạc loài" ở nhà thì có một chàng trai to lớn tìm đến. Sau khi giới thiệu là Quang Dũng, chàng cho biết vừa xem phòng tranh của tôi ở phố Tràng Tiền và thấy rất thú nên tới làm quen. Biết Quang Dũng cũng mê vẽ, tôi tặng người bạn mới quen một ít bột màu và bút vẽ. Bẵng đi một thời gian, Quang Dũng lại lừng lững đến nhà tôi, đem theo vài bức tranh bột màu khoe bạn. Những bức tranh phong cảnh trông thật sinh động và cũng thật ngộ. Có cái gì đó vừa ngượng nghịu ngây thơ, vừa dạt dào tươi mát. Nhìn vào tranh mới thấy rõ niềm say mê hội họa và càng hiểu rõ cái nghèo của anh… Tác phẩm cái thì vẽ trên mẩu giấy báo, cái vẽ trên bìa, xé ra từ một quyển vở nào đó”.
Những bức tranh của ông sau này phần lớn là vẽ phong cảnh những nơi ông đã từng qua, vùng biên giới, vùng trung du Hòa Bình… và riêng vùng Ba Vì - Tam Đảo ông vẽ khá nhiều… Quang Dũng yêu núi rừng, biển cả nhưng chả mấy khi được ngao du… nên có dịp đi đâu là ông lại mang theo màu và giấy để ghi chép lại những hình ảnh ven biển, sông nước, đồi cây, nắng chiều, đường vắng… và ghi lại là để những lúc quẩn chân và buồn bực trong căn nhà chật hẹp khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Hà Nội… ông lại giở những bức ghi chép còn lại để tìm quên trong những phút giây ngắn ngủi mơ màng. 

                               

Có lẽ với Quang Dũng, những gì ông vẽ chỉ là thay cho cảnh vật yêu quý và thỏa mãn tính ưa ngao du của ông. Chỉ một cánh buồm xơ xác, một cánh hoa gạo đỏ, một bóng người liêu xiêu nơi lối mòn nơi biên giới… cũng đã làm trái tim thi nhân của ông rung động và ngay lập tức nó phải được ghi lại, lưu lại… Trong hội họa, lối vẽ do ngẫu hứng này nhiều khi buông bỏ chi tiết nên dễ gây cảm giác “chưa hoàn thiện” với người thưởng lãm … Nhưng với ông - một thi nhân khao khát thiên nhiên thì việc mơ mộng còn cần thiết hơn là sa vào những lí thuyết cao vời, mông lung mà rồi cũng không cảm nhận được vẻ đẹp tự nhiên đầy mới lạ nơi thiên nhiên kì thú. Thơ Quang Dũng thường buồn, có đôi chút bâng khuâng, man mác. 
Tranh của ông cũng vậy… lặng lẽ, vắng vẻ nhưng không thấy mất đi tình yêu cuộc sống. Nói vậy nhưng “cái sự vẽ” của thi nhân đôi lúc cũng giúp được gia đình đôi phần trong cái giai đoạn bao cấp khó khăn. Những năm 70 của thế kỉ trước, nhà nhà làm thêm, người người làm thêm, gia đình ông cũng mải miết làm thêm: con gái đan gấu áo len cho mẹ; con giai nhận móc túi lưới, vợ dệt áo… thi nhân “lẻn” vào một góc lấy màu và giấy vẽ một vài bức tranh phong cảnh Hạ Long… rồi lén mang đi... nhiều ngày. Một ngày cả nhà thấy ông hớn hở trở về, rút trong túi ra một ít tiền đưa cho vợ… Hình như ông vui vì cái mơ mộng của ông cũng không đến nỗi “vô tích sự”.
Quang Dũng vẽ nhiều những cũng để thất lạc nhiều. Tranh của Quang Dũng “thất lạc” có nhiều lý do, trong đó chủ yếu do ông thường đem tranh tặng bạn bè, thi hữu. Nói theo tâm lý học, việc không quan tâm tới lưu giữ tác phẩm của mình cũng là thói thường của đàn ông, chỉ cần thỏa mãn cái tôi của mình trong lúc ngẫu hứng… Còn việc lưu giữ là của người khác… Câu chuyện tìm lại được bức tranh mang tên "Bến Ngọc" được Quang Dũng vẽ năm 1960 cũng đã minh chứng phần nào cho việc “thất lạc” của tranh ông.
Chị Bùi Phương Thảo, con gái nhà thơ Quang Dũng từng cho biết: “Bức vẽ "Bến Ngọc" đã thất lạc trong nhiều năm, gần đây được một người bạn của bố tôi tặng lại gia đình. Nâng niu bức tranh đã bị rách, bốn góc phải “băng bó” và phía sau bồi bằng một tờ bìa mỏng trông thật “tội nghiệp”. 
Tôi không khỏi bồi hồi khi hình dung ở trên Bến Ngọc này, cách đây hơn 60 năm, một đoàn những chàng trai Hà Nội tràn đầy sức xuân, trong đoàn quân Tây Tiến hăng hái nhận nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Trong đoàn quân ấy có cha tôi, và bài thơ "Tây Tiến" đã ra đời sau khi cha rời xa đơn vị ít ngày”.
Tranh của Quang Dũng hiện được gia đình thu thập lại từ nhiều nguồn. Số ở trong gia đình giữ chỉ còn hơn chục bức. Có bức ở gia đình cố nhà thơ Yến Lan. Bức tranh bột màu “Trưa mùa gặt” được thấy ở trời Tây, hiện được nhà nghiên cứu Đặng Tiến giữ, phía sau có ghi: “Ai mở ra xin giữ hộ tôi tranh này. Xin trân trọng cảm ơn. Quang Dũng”. 
Chủ nhân bức tranh (Quang Dũng) đã không biết tác phẩm của mình sau này sẽ về neo đậu nơi đâu. Dù  biết tác phẩm của mình sẽ có số phận lênh đênh, nhưng ông vẫn tin rằng ai đó sẽ yêu và giữ nó thay ông. Họ giữ, họ yêu các tác phẩm của ông bởi đó là những bức tranh đã được ông vẽ bằng những rung động nghệ thuật chân thực nhất của trái tim ông - thi sĩ Quang Dũng. 
Nhà thơ Trần Lê Văn - một người bạn cùng thời với Quang Dũng đã đưa ra một nhận xét: “Quang Dũng viết văn xuôi cũng là một cách làm thơ… bằng văn xuôi. Cũng như anh vẽ tranh cũng là một cách làm thơ bằng hội họa”.
Và với tranh của Quang Dũng… vậy cũng là đủ!



Nguồn: Văn Nghệ Công An