Nhà thơ Đặng Huy
Giang nhận định: Với Hữu Thỉnh, tôi chọn “Cây
đổ về nơi không có vết rìu” trong “Tự thú”, “Họ yêu nhau không có kinh nghiệm gì” trong “Chạm cốc với Xa-in”, “Nước lã đổ đi nước lã lại đem thờ” trong
“Đường tới thành phố”… Đó là những đơn vị thơ hay giản dị mà sâu sắc, không dễ viết, có màu sắc
và có hàm lượng nhân sinh rất cao… Đó cũng là sự trải nghiệm được trưng cất
trong đời sống tinh thần của Hữu Thỉnh đúng với quan niệm của ông: “Thơ là kinh
nghiệm sống”.
ĐƠN VỊ THƠ HAY TRONG THƠ HỮU THỈNH
ĐẶNG HUY GIANG
1.
Năm kia, khi một mình đứng ra tuyển chọn thơ
cho tập “Một chữ tình”, trong đó hầu hết là thơ tình của Việt Nam và thế giới,
tôi đã nghĩ ngay đến Hữu Thỉnh. Tôi cho rằng, trong mảng thơ này, Hữu Thỉnh không
thiếu bài hay. Đó là “Thơ viết ở biển” với “Anh
xa em/ Trăng cũng lẻ/ Mặt trời cũng lẻ/ Biển vẫn cậy mình dài rộng thế/ Vắng
cánh buồm một chút đã cô đơn”. Đó là “Ấm lạnh” với “Đêm nay là cái đêm gì nhỉ/ Rét biến thành dây để trói tôi/ Em kề bên
hoa trước mặt/ Ngày mai thương nhớ đã qua trời”. Đó là “Chăn-đa em ơi” với “Nhớ sen đi tìm đồng/ Gặp toàn bong bóng
nước/ Quay về hoa vẫn cúc/ Anh cầm như trăm năm”. Đó là “Em” với “Có kẻ rủa em chết đi/ Vú em mỗi ngày mỗi
ngọc”. Cuối cùng, tôi chọn “Lọc”:
Lọc hết bùn đi
Còn chút gì sót lại
Đấy là anh sau những vui buồn
Tắt mất ngày rồi
Còn chút gì sống được
Đấy là em rực rỡ sao Hôm
Anh đã yêu em trên tất cả những gì nhảm nhí
Mây đến quanh ta thành đồ đạc quanh nhà
Đến quả chín cũng phải cần vỏ bọc
Hai đứa mình vừa bóc một lần yêu.
Và
tôi đã có ngay lời bình: “Lọc hết bùn đi/ Còn chút gì sót lại/ Đấy là anh sau
những vui buồn”, không phải là không có sức thuyết phục ít nhiều. “Tắt mất ngày
rồi/ Còn chút gì sót được/ Đấy là em rực rỡ sao Hôm”, không phải là không có
sức thuyết phục, nhưng vẫn không mới. “Đến quả chín cũng cần vỏ bọc/ Hai đứa
mình vừa bóc một lần yêu”, cũng hay, nhưng vẫn chỉ hay ở cách nói. Nhưng đến
“Anh đã yêu em trên tất cả những gì nhảm nhí/ Mây quanh ta thành đồ đạc quanh
nhà” thì hoàn toàn thuyết phục và mới, đã vượt qua “hay ở cách nói”.
Rất nhiều năm về trước ở Trung Hoa, cùng
với “Thánh thi” Đỗ Phủ, “Tiên thi Lý Bạch, “Đạo thi” Bạch Cư Dị, còn có “Quỷ
thi Lý Hạ”. Trong “Mộng lên trời”, Lý Hạ đã nhìn xuống trái đất và thấy: “Chín
châu nhìn như chín chấm khói/ Biển không rót đầy một cái li”.
Trong “Lọc”, Hữu Thỉnh làm ngược lại. Ông đã
làm không gian của tình yêu, kích cỡ của tình yêu và tình yêu lớn hẳn lên. Đang
ở dưới đất mà ông nghĩ mình và người yêu của mình đang ở trên trời. Nếu không
thế, tại sao ông lại hạ bút viết: “Mây đến quanh ta thành đồ đạc quanh nhà”. Thành
công nhất của “Lọc” là Hữu Thỉnh đã vũ trụ hóa tình yêu và “Lọc” cũng là tứ thơ
độc đáo của Hữu Thỉnh.
2.
Sinh thời, Phạm Tiến Duật rất đề cao những câu
thơ hay và ông coi đó là những câu thơ
hạng nhất. Có lần, Phạm Tiến Duật đã đọc hai câu thơ của Chế Lan Viên: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã
hóa tâm hồn” và hai câu thơ của Thi Hoàng: “Trời cứ xanh như rút ruột mà xanh/ Cây cứ biếc như vặn mình mà biếc” làm ví dụ. Nhưng đấy vẫn là đơn vị thơ hay
gồm hai câu.
Trong khi ấy trong thơ Việt Nam và thế giới,
vẫn có đơn vị thơ hay chỉ có một câu. Hay nói một cách khác: Lâu nay, trong thơ
Việt Nam và thế giới, có hiện tượng: Chỉ một câu thơ thôi, vẫn có thể đứng độc
lập, có giá trị như một bài thơ.
Đó là Bạch Cư Dị với “Cùng một lứa bên trời lận đận”, Tagore với “Chúa cũng tự tìm mình trong sáng tạo”, B. Brecht với “Làm người ác khó nhọc vô cùng”, Y.
Bonnefoy với “Bất toàn là đỉnh cao”,
W. Szymborska với “Không có gì hai lần”,
K. Lubomirski với “Tại sao ánh sáng đi
qua chúng ta lại chỉ còn bóng tối”, Nguyễn Trãi với “Hoa thường hay héo cỏ thường tươi”, Nguyễn Du với “Biết trong lẽ phải có người có ta”,
Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Thế gian biến đổi
vũng nên đồi”…
Hãy thử hình dung nếu thiếu câu “Làm người
ác khó nhọc vô cùng” thì chắc chắn sẽ không có bài thơ “Mặt nạ kẻ ác” của B.
Brecht:
Trong buồng tôi
treo một điêu khắc gỗ
Mặt nạ thần Nhật
Bản thếp vàng
Mạch máu hằn trên
trán nhăn khốn khổ
Tôi nhìn nó cảm
thông
Làm người ác khó
nhọc vô cùng.
Còn nếu thiếu câu “Bất toàn là đỉnh cao” thì
chắc chắn sẽ không có bài thơ “Bất toàn là đỉnh cao” của Y. Bonnefoy:
Có điều là phải hủy
diệt, và hủy diệt, và hủy diệt
Có điều là sự cứu
rỗi chỉ có được bằng cái giá đó.
Phá tan bộ mặt trần
trụi trồi lên trong đá hoa
Đập vỡ mọi hình
dạng, mọi cái đẹp.
Yêu cái toàn bích
bởi đó là ngưỡng cửa
Nhưng từ chối ngay
nó khi tận mặt, hãy quên nó, cái đã chết.
Bất toàn là đỉnh
cao.
Thời
hiện đại, thơ Việt cũng không thiếu câu thơ như vậy. Đó là Chế Lan Viên với “Anh nhớ em như đông về nhớ rét”. Đó là
Trần Dần với “Mưa rơi không cần phiên
dịch”. Đó là Thi Hoàng với “Có những
buổi chiều không biết cất vào đâu”…
Với Hữu Thỉnh, tôi chọn “Cây đổ về nơi không có vết rìu” trong
“Tự thú”, “Họ yêu nhau không có kinh
nghiệm gì” trong “Chạm cốc với Xa-in”, “Nước
lã đổ đi nước lã lại đem thờ” trong “Đường tới thành phố”… Đó là những đơn
vị thơ hay giản dị mà sâu sắc, không dễ
viết, có màu sắc và có hàm lượng nhân sinh rất cao. Đó là thứ thơ theo Hoàng
Đức Lương (nhà thơ người Việt Nam, thế kỷ 15): “Là màu sắc ngoài màu sắc, không
thể ngắm bằng con mắt thông thường; là mùi vị ở ngoài mùi vị, không nếm với
khẩu vị thông thường. Chỉ có chính nhà thơ mới có khả năng nhìn ra màu sắc ấy
và nghiệm thấy mùi vị ấy”.
Đó cũng là sự trải nghiệm được trưng cất
trong đời sống tinh thần của Hữu Thỉnh đúng với quan niệm của ông: “Thơ là kinh
nghiệm sống”.
3.
Theo quan niệm nhà
Phật, con người và sự vật thường biểu hiện ở hình tướng và vô tướng
(hoặc vô hình tướng). Chỉ cần có một không gian và một vật thể là ta có thể
nhìn ra hình tướng (cái bên ngoài,
phần hình thức). Còn cái vô tướng (cái
bên trong, phần nội dung) rất khó mường tượng ra.
Trong thơ cũng vậy. Chính sự vô tướng của
nó làm cho nó trở nên khác thường.
Bằng những đơn vị thơ hay của mình, Hữu
Thỉnh đã chạm đến phần vô tướng sâu thẳm trong thơ.
Thêm nữa, trong khi làm thơ vào thời điểm
thăng hoa, từ trong vô thức, Hữu Thỉnh vô tình đã thành người đi tìm “lý trong
gió” nhưng lại gặp “tình trong mưa” theo cách của ông./.