Tôi bần thần
trong căn phòng lưu lại những kỷ vật của đời thơ Quang Dũng. Dù ấm cúng, trang
trọng nhưng ít ỏi, giản đơn quá! Một tủ đựng sách, sổ tay bút tích của thi sĩ.
Cùng một số bức tranh bột màu Quang Dũng vẽ treo trên tường. Không rõ “góc
Quang Dũng” tại Bảo tàng Văn học Việt Nam ở Hà Nội đang có những gì? Chạnh
nhớ lúc ngang qua “Nhà danh nhân” 65A Nguyễn Thái Học, từng là cố cư của hàng
loạt những tên tuổi: Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Dương
Bích Liên, Nguyễn Đình Thi, Đỗ Nhuận, Huỳnh Văn Gấm, Văn Giáo, Mai Văn Hiến, Trần
Đông Lương, Vũ Tú Nam… giờ trông xuống cấp, nhôm nhoam.
Cố cư Hữu Loan, Quang Dũng
TRẦN TUẤN
Không phải nghiện
hay lụy vào từ Hán-Việt, nhưng tôi cứ thích dùng hai chữ “cố cư” mỗi khi nhìn lại
chuỗi biến cố thăng trầm cuộc đời ai đó. Cố cư, có nghĩa là một nơi ở cũ, vậy
thôi. Mỗi đời người để lại một cố hương sau lưng, rồi lần lượt trải qua bao nơi
ăn chốn ở mới, dần dà thành những “cố cư” đằm sâu trong ký ức. Như Nguyễn Trãi
từ Côn Sơn quặn nhớ về chốn cũ quê nhà “Vân ngoại cố cư không huệ trướng/ Nguyệt
trung thanh mộng nhiễu sơn gia” (Nhà cũ ngoài mây trơ trướng huệ/ Núi quê
trong nguyệt quẩn chiêm bao – bản dịch Đào Duy Anh).
Tôi đã tìm về cố
cư của Trung niên thi sĩ Bùi Giáng dưới chân núi Cà Tang thượng nguồn Thu Bồn–Nông
Sơn (Quảng Nam). Nơi chàng từng có những năm tháng đầu đời đọc sách, chăn dê,
nơi vĩnh viễn nằm lại người vợ trẻ đầu tiên và duy nhất trong đời. Trước khi bước
vào gió bụi đời sống và văn chương. Từng về cố cư của anh em nhà Tự lực Văn
đoàn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam ở “trại văn chương Cẩm Giàng” (Hải Dương)
đến giờ vẫn là một khu vườn tiêu điều, hoang vắng bên cái ga xép lạnh hiu hắt
giữa thời đại 4.0. Tôi cũng bồi hồi trong sân nhà tác giả “Bỉ vỏ” Nguyên Hồng
nơi đồi Cháy, ấp Cầu Đen ở quê xứ Nhã Nam, Bắc Giang. Ấp Cầu Đen này cũng chính
là cố cư của những danh tài Ngô Tất Tố, Kim Lân, Đỗ Nhuận, Trần Văn Cẩn, Tạ
Thúc Bình ... cùng gia đình về quây quần làm hàng xóm của nhau trong những ngày
kháng chiến, như một làng văn chương độc đáo.
Đến đây, sực nhớ
hồi ký của nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Năm 1953, Đỗ Nhuận đạp xe từ Thái Nguyên về Nhã
Nam tuyển văn công, kèm hy vọng biết đâu nhân dịp này tìm được một…cô vợ!
Chẳng gì cũng đã 31 tuổi rồi! Một đêm trăng sáng trong nhà Nguyên Hồng ở ấp Cầu
Đen, chàng nhạc sĩ chợt nghe giọng nữ lảnh lót hát bài “Du kích sông Thao” của
mình. Bà Mùi vợ Nguyên Hồng giới thiệu đó là cô Nguyễn Thị Túc, em gái nhà văn
Nguyên Hồng, là con gái Sơn Tây lên đây tản cư chưa có người yêu. Đỗ Nhuận bèn
không tuyển cô Túc vào văn công, mà quyết định tìm hiểu để lấy làm vợ! Vợ nhà
văn Kim Lân nhà gần bên hay chuyện bèn mai mối thêm cho hai người. Về lại cơ
quan báo tin, thi sĩ Trần Dần đùa: “Đừng có tuyển nhầm con gái địa chủ nhé!”.
Bán đôi mấm được mấy trăm, Đỗ Nhuận nhờ bà vợ Kim Lân kêu người làm giúp cho một
căn nhà một gian hai chái hướng đông nam mất 50 đồng Cụ Hồ, còn thì dành vào việc
cưới. Cưới ngay tại ấp cầu Đen, do Nguyễn Tuân chủ hôn, không pháo cưới không đội
nhạc, chú rể hát đệm ghita. Gian nhà tre nứa đầu đời của vợ chồng nhạc sĩ tài
hoa ấy đã trở thành cố cư từ bao năm rồi, giờ còn dấu tích nào không?
*
Lan man, để nhớ
cái cảm giác như có thể đưa tay nâng lên từng vốc thời gian quánh đặc bên trong
gian nhà mái ngói đọng rêu đã oằn xuống hờ hững. Rui mè bằng tre đưa ra mưa nắng.
Từng mảng tường gạch đỏ đã xạm đi như đã âm thầm cháy suốt nhiều tháng
năm. Gần như chìm khuất sau từng đống cành lá nhãn khô (có lẽ dùng để đun nấu?)
chất đầy gian nhà là chiếc xe lăn đã gỉ sét. Một đời oằn lưng phá đá từ núi gần
Vân Hoàn đến núi xa Cẩm Thủy, rồi thồ đá bán dạo khắp nơi với chiếc xe cút kít
bằng gỗ, sau này là chiếc “xe đạp Điện Biên” để nuôi đàn con đông đúc, Hữu Loan
có mấy lần “chịu” ngồi lên chiếc xe lăn được ai đó tặng này?
Kỳ thực với Hữu
Loan đây không phải cố cư, cũng không phải cố hương, mà là đích thực quê nhà. “Cây
gỗ vuông chành chạnh suốt đời” Hữu Loan đương đầu với cuộc biến số phận bằng
cách chọn chính mảnh đất quê nhà làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa để nương náu suốt hơn 50 năm liền, hầu như không mấy khi ra khỏi
làng.
Và gian nhà đã rệu
rã kia có lẽ đã rời hơi ấm của ông từ khá lâu, khi góc vườn bên kia là một gian
nhà xây tuy nhỏ nhưng khá chắc chắn. Phút lâm chung của Hữu Loan cũng tại gian
nhà đó, nay trở thành nơi thờ tự. “Đợi khi sang mộ cho mẹ xong, gia đình sẽ xây
lại nhà thờ này. Còn nhà cũ kia sẽ tu sửa lại, và tôn cao mặt sân để khỏi mưa
ngập”, anh Nguyễn Hữu Vũ, con trai Hữu Loan nói. Tôi để ý cả khu vườn lẫn hai
cái ao khá lớn đều được kè bằng những lớp đá kiên cố. Anh Vũ bảo đó đều là “đá
Hữu Loan”. Có một “đá Hữu Loan” nữa ngay mé thềm, mà để ý thấy khi thắp hương
lên bàn thờ cha mẹ xong, anh Vũ cầm cây hương bước ra đặt ngang trên đấy. Một
khối đá hình chữ nhật xù xì đặt trên bệ xi măng. Anh Vũ kể, sinh thời mỗi tối
thi sĩ Hữu Loan đều ra sân thắp rồi đặt lên trên đấy mấy cây hương. Đó có lẽ là
cách mà Hữu Loan cảm tạ trời đất, cảm tạ đá đã giúp ông và gia đình sống sót
cùng cuộc mưu sinh nhọc nhằn…
*
Lúc theo chị Thảo
lên gác thắp nén nhang trước di ảnh tác giả “Tây Tiến” Quang Dũng, tôi bỗng nhớ
tới những bậc thang gỗ cót két nơi cố cư Lỗ Tấn ở Thượng Hải. Căn hộ tập thể
ghi số 9 ngõ 132 Shanyin, quận Hồng Khẩu ấy là nơi cha đẻ A.Q sinh sống cùng vợ
và con trai 3 năm cuối đời (1933-1936) ăm ắp những đồ vật gắn với cuộc sống của
văn hào. Cả trang lịch, chiếc đồng hồ cũ kỹ cũng ngưng lại vĩnh viễn đúng vào
phút giây Lỗ Tấn qua đời. Còn giờ đây, ngôi nhà 3 tầng cũng trong một con ngõ
nhỏ phố Tam Trinh quận Hoàng Mai, Hà Nội. Nơi chốn mà lúc sinh thời Quang Dũng
có lẽ chưa từng đặt chân tới, cũng không tưởng tượng ra. Sực nhớ không xa chỗ
này, nơi phố Nguyễn Thị Minh Khai từ hơn 40 năm về trước cũng từng là cố cư của
tôi suốt những năm tuổi thơ trong một khu tập thể đông đúc.
Hồi chiều trước
khi tới đây, tôi lang thang trước ngôi nhà 296 phố Bà Triệu, rồi 45 Nguyễn Công
Trứ. Những nơi mà Quang Dũng cùng gia đình ở từ sau 1954, cho đến khi qua đời.
Nhìn lên những ngôi biệt thự hoành tráng, không còn tìm lại được dấu vết nào
xưa cũ. Cái thời mà văn nghệ sĩ cũng như công chức nhà nước được ở nhà phân phối,
đa phần là các căn buồng tập thể đủ kiểu đủ loại, được ở cho đến hết đời. Làm
gì có khái niệm “nhà riêng”. “Nhà tôi 24 Cột Cờ/ Ai yêu thì ghé, hững hờ thì
qua” như của Huy Cận - Xuân Diệu thuộc vào dạng hiếm.
Chị Bùi Phương
Thảo là con gái út của thi sĩ Quang Dũng, giáo viên vừa nghỉ hưu. Chị kể hồi ở
Bà Triệu, nhà ở gác 3, là một căn buồng rộng chừng 20 m2, mùa lạnh thì quá mát,
mùa nóng thì quá ấm! Bố Dũng có những sáng kiến thật hay. Mùa hè, khi ngủ ông
“chỉ huy” cả nhà nằm (dưới nền) bắt chéo bên nhau, rồi đặt cái quạt máy đế gang
35 đồng duy nhất của cả nhà lên cái ghế đẩu phía cửa chĩa mát vào. Rồi, thi sĩ
thủng thẳng: “Nằm chéo như thế này ai cũng được mát, còn tôi dùng quạt nan cho
tiện và rèn luyện các khớp tay cho dẻo dai còn viết lách”…
Còn nhạc sĩ
Quang Vĩnh (Bùi Quang Vĩnh, con trai cả của nhà thơ), thì kể một chuyện khá “lạ
lùng”: Hồi năm 1960, khi ông mới khoảng 12-13 tuổi, có đoàn nhà văn nước ngoài
sang làm việc với NXB Văn học nơi bố Dũng đang công tác. Nghe danh tác giả “Tây
Tiến”, ông trưởng đoàn muốn được đến thăm nhà riêng của thi sĩ. Quang Dũng khó
xử, bởi “nhà riêng” chỉ là một căn buồng chật chội trên tầng 3 ở phố Bà Triệu.
Để “giữ thể diện” chung cho các văn nghệ sĩ cũng như nhà nước, lãnh đạo cơ quan
đã vui vẻ hẹn mời đoàn bạn đến “nhà Quang Dũng” tại số…51 Trần Hưng Đạo! Khu biệt
thự này khi đó đang là trụ sở của Hội Nhà văn Việt Nam lẫn NXB Văn học. Thế rồi
một sáng Chủ nhật, vợ chồng Quang Dũng cùng 4 đứa con nhỏ dọn đến “nhà mới” 51
Trần Hưng Đạo. Những đứa trẻ được dặn dò mọi đi đứng, sinh hoạt ở đây phải đúng
như đang…ở nhà của mình, chỉ có điều không được động vào bất cứ thứ gì trong
phòng! Khi đoàn nhà văn nước ngoài đến nơi, bắt gặp khung cảnh một gia đình hạnh
phúc, những đứa trẻ chơi đùa, mẹ ngồi trông em bé và đan len bên cửa sổ, cha ngồi
phòng viết… Đến chiều, khi khách ra về, gia đình Quang Dũng lại lục tục kéo
nhau về cái buồng thật của mình!
Tôi bần thần
trong căn phòng lưu lại những kỷ vật của đời thơ Quang Dũng trong nhà chị Thảo.
Dù ấm cúng, trang trọng nhưng ít ỏi, giản đơn quá! Một tủ đựng sách, sổ tay bút
tích của thi sĩ. Cùng một số bức tranh bột màu Quang Dũng vẽ treo trên tường.
Không rõ “góc Quang Dũng” tại Bảo tàng Văn học Việt Nam ở Hà Nội đang có
những gì?
Chạnh nhớ lúc
ngang qua “Nhà danh nhân” 65A Nguyễn Thái Học, từng là cố cư của hàng loạt những
tên tuổi: Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên,
Nguyễn Đình Thi, Đỗ Nhuận, Huỳnh Văn Gấm, Văn Giáo, Mai Văn Hiến, Trần Đông
Lương, Vũ Tú Nam,… Giờ trông xuống cấp, nhôm nhoam.
Nhớ Quang Dũng
có bút ký “Những căn nhà đi”. Kể về những ngày giáp Tết sau sự kiện Khâm Thiên
1972. Là cảnh “những căn nhà đi vội về Hà Nội, suốt từ 20 đến 25 tháng chạp”.
Trên đường cứ mấy phút lại có một chuyến ô tô chở đầy đủ một căn nhà tre ba gian
lao về hướng Thủ đô để còn kịp dựng nhà trước 25 Tết. Đó là phong trào từ miền
núi tới miền xuôi, mỗi HTX nông nghiệp đều có nhà gửi về giúp đồng bào bị B.52 ở
Hà Nội. Riêng tỉnh Hà Tây đã có gần 500 căn nhà vào Hà Nội. Người làng “bịn rịn
nhìn cái nhà đã xếp gọn trong lòng xe như đã tưởng tuợng thấy trước được cháu
nhỏ nào sẽ dựa vào cái cột này mà học bài, người mẹ nào trong gia đình sẽ lại
ngồi nhặt mớ rau ở cái ngưỡng cửa kia...”. Cảm xúc sâu lắng của thi nhân về phần
hồn của một nơi chốn ở, dù chỉ là tạm thời.
Nguồn: Tiền Phong