Xưa nay, người Nghệ vốn ưa trào lộng, nên bất cứ chuyện gì họ
cũng có thể khôi hài, nói lái hoặc chơi chữ để rồi cười phá lên với nhau. Âu
cũng là một cách sống lạc quan, bỡn cợt trước gian nan, để vượt lên tất cả. Thế
nên, không lạ khi các o thanh niên xung phong ở Thạch Kim đã tinh nghịch “khai”
quê mình là “Thạch Nhọn”. Và cái làng biển ở một vùng quê nghèo lập tức nổi tiếng
trong thơ của Phạm Tiến Duật. Chỉ một lần trong chói lóa chớp bom, hay mờ tỏ
trong ánh sáng đèn dù, cũng đủ để người ra trận nhớ mãi. Để rồi sau chiến
tranh, thi sĩ tài hoa và các o thanh niên xung phong đi tìm nhau với tình cảm
thương mến, cảm phục.
NGÀY XUÂN, PHIẾM CHUYỆN “NGHỆ NGỮ”!
NGUYỄN MINH NGỌC
Tiếng Việt ta vốn rất phong phú, sinh động, đa âm tiết. Mỗi vùng
miền trên cả nước thường có chất giọng khác nhau, song từ địa đầu phía Bắc cho
đến đất mũi Cà Mau, mọi người dân đều có thể dễ dàng giao tiếp. Bởi vậy không
có gì lạ khi Lưu Quang Vũ say đắm, thốt lên: “Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa/
Óng tre ngà và mềm mại như tơ” (Tiếng Việt). Những năm tháng chiến tranh chống
Mỹ, nhà thơ Phạm Tiến Duật từng ngồi sau vô-lăng vào Nam ra Bắc, ông đã không
giấu nổi sự ngạc nhiên khi đi qua tuyến lửa khu Bốn: “Tiếng Hà Tĩnh nghe buồn
cười đáo để/ Anh lặng người như trôi trong tiếng ru” (Gửi em, cô thanh niên
xung phong).
Tuy nhiên, đối với người nước ngoài, khi tiếp cận với tiếng
Việt, học và nghiên cứu về nó, quả thật không dễ dàng. Nhiều người đã thốt lên,
rằng: “Phong ba bão táp chẳng bằng ngữ pháp Việt Nam”. Ấy là mới nói đến tiếng
Việt phổ thông, chứ chưa đụng đến phương ngữ. Có bao nhiêu vùng miền là có bấy
nhiêu vùng ngôn ngữ khác nhau, tiếng vùng nào cũng trọng, cũng quý. Nằm trong tiếng
Việt, tiếng Nghệ lại càng bội phần gian nan. Nói đúng ra là giọng nói hay cách
phát âm riêng có của người Nghệ, nhưng xin được gọi “tiếng Nghệ” cho giản tiện.
Giống như cuộc sống muôn màu, ngôn ngữ cũng luôn vận động và
phát triển. Trong quá trình tiếp biến, dường như “Nghệ ngữ” vẫn còn bảo lưu được
nhiều từ Việt cổ. Giọng Nghệ vốn “nhẹ như đeo đá”, vừa có lắm thổ âm, lại nhiều
thổ ngữ. Vậy nên người lạ nghe và hiểu được là điều vô cùng khó khăn. Đến việc
dịch “Nghệ ngữ” ra tiếng phổ thông, mọi người thường đùa, ít nhất cũng phải là
“cử nhân tiếng Nghệ” thì may ra. Điều ấy không có gì lạ, khi nhà nghiên cứu
Ninh Viết Giao dày công bỏ ra mấy chục năm trời, chuyên tâm sưu tầm làm nên bộ
sách “Kho tàng ca dao xứ Nghệ” 2 tập, ngót cả ngàn trang in.
Xưa nay, người Nghệ vốn ưa trào lộng, nên bất cứ chuyện gì họ
cũng có thể khôi hài, nói lái hoặc chơi chữ để rồi cười phá lên với nhau. Âu
cũng là một cách sống lạc quan, bỡn cợt trước gian nan, để vượt lên tất cả. Thế
nên, không lạ khi các o thanh niên xung phong ở Thạch Kim đã tinh nghịch “khai”
quê mình là “Thạch Nhọn”. Và cái làng biển ở một vùng quê nghèo lập tức nổi tiếng
trong thơ của Phạm Tiến Duật. Chỉ một lần trong chói lóa chớp bom, hay mờ tỏ
trong ánh sáng đèn dù, cũng đủ để người ra trận nhớ mãi. Để rồi sau chiến
tranh, thi sĩ tài hoa và các o thanh niên xung phong đi tìm nhau với tình cảm
thương mến, cảm phục.
Còn nhớ hồi cuối năm 1975, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáp
nhập thành tỉnh Nghệ Tĩnh to vật. Nhưng hóa ra cái sự nhập này chỉ là một anh
nghèo đèo thêm một anh khổ. Khi được hỏi về sự kiện này, mấy anh dân Hà Tĩnh thường
gật gù: Nỏ có chi mô, “vinh dự” hết mà! Câu này chỉ các “Nghệ nhân” mới luận ra
được cái thâm ý. Thì ra, nhập tỉnh, thành Vinh là tỉnh lỵ của Nghệ Tĩnh. Theo
đó, các cơ quan, công sở ở thị xã Hà Tĩnh đều phải chuyển hết ra Vinh. Từ “dự”
trong “Nghệ ngữ”, có nghĩa là “giữ” (dấu ngã nói thành dấu nặng), tức là thành
Vinh “nắm giữ” hết! Cách nay gần 20 năm, khi một số xã mạn đông nam huyện Nghi
Lộc được tách ra để thành lập thị xã Cửa Lò, thúc đẩy phát triển dịch vụ du lịch
biển. Đùng cái, nơi thì lên phường lên phố, nơi vẫn còn lầm lụi xóm, thôn. Người
Nghi Lộc nói trạng, như rứa là “Lộc” thì đi mà “Nghi” ở lại!
Tiếng Nghệ nặng là một nhẽ, nhưng có nhiều thổ ngữ rất lạ tai,
cách phát âm mất dấu khiến cho người nghe… ngơ ngác. Nói về sự khó, người ta
thường nhắc đến giọng Nghi Lộc. Một huyện với gần 30 xã mà nghe đâu có cả trăm vùng
phát âm khác nhau. Nhiều cứ liệu cho rằng, từ thời nhà Trần có khá nhiều tù
binh Chiêm Thành được đưa về quản thúc ở vùng Chân Phúc (nay là Nghi Lộc). Rất
đông trong số quân binh ở lại lập nghiệp, lấy vợ, sinh con đẻ cái, tạo nên sự
phong phú về chất giọng. Chỉ với riêng tiếng Nghi Lộc, thì ngay cả những “Nghệ
nhân” giỏi chưa chắc đã “dịch” nổi, chớ đừng nói chi đến người ngoại tỉnh. Bó
tay luôn!
Ở Hà Tĩnh có hai xã Đức An, Đức Dũng cũng phát âm gần như
vùng Nghi Lộc. Hồi ở trường cấp 3 Trần Phú (nay là PTTH) tôi học cùng nhiều bạn
ở đây. Một lần đến giờ vật lý, thầy gọi một bạn quê Đức An (nay là bác sĩ) lên
hỏi bài. Bạn tôi đứng dậy nói như bắn liên thanh: “Lặc… lặc lè mót đẹ lạng…” (Lực…
lực là một đại lượng…). Cha mẹ ui, cả lớp bò ra mà cười. Thầy giáo lắc đầu: Em
nói chi mà như gà mổ mo rứa? Nói chậm thôi, phải rèn tập cho quen chớ!
Ngày nay, lan truyền chuyện dân Nghệ “rành” nhiều “ngoại ngữ”
nhất nước… Một anh chàng trai chén mít xong, cầm cả búi xơ liệng ra sông, rồi xổ
ra một tràng: “Quýt-xơ-măng-công-soa!”. Ngỡ đâu tay này giỏi tiếng Pháp, nhưng
hóa ra đó chỉ là cách nói lái cụm từ “quăng-xơ-mít-qua-sông” mà thôi.
Nhiều gã trai xứ Nghệ học hành đỗ đạt đều “bám trụ” ở Thủ đô
và lấy vợ người Bắc. Thành thử, trước khi đưa người yêu, hoặc vợ về quê, chàng
nào cũng dành ra một khoảng thời gian để luyện “Nghệ ngữ”, song chẳng ăn thua.
Bởi thực tế khi tiếp xúc mới thấy không bõ bèn gì, chỉ như muối bỏ sông, bỏ bể
vậy. Do vậy, mới sinh ra nhiều chuyện bi hài, dở cười, dở khóc. Một cô vợ vừa về đến quê chồng, bà
con lối xóm bu lại hỏi: “O-ni-du-ai?”. Cô gái Hà thành mắt tròn, mắt dẹt, dân
quê giỏi tiếng Ăng-lê dữ? Báo hại, ông chồng phải dịch, câu ấy hỏi “cô này là
dâu con nhà ai”. Vô nhà, chưa kịp ấm chỗ, đã lại nghe mấy chàng thanh niên líu
ríu: “Mi-đi-ga-chi?” (Mày đi ga nào?) rồi “Choa-đi-ga-si!” (Chúng tớ đi ga Si).
Nghe vậy, thì rõ là tiếng Nhật rồi còn gì!
Chuyện kể hồi cuối thập niên 50 (thế kỷ XX), một anh bộ đội
miền Nam tập kết ra đóng quân ở xứ Nghệ, đem lòng yêu say đắm một cô gái bản địa.
Tình cảm giữa hai người tới hồi đằm thắm thì song thân của cô gái biết chuyện.
Ông bố cho rằng, “trai khôn lấy vợ, gái ngoan gả chồng”, nên không lăn tăn gì.
Nhưng bà mẹ thì lo ngại con gái lấy chồng xa, miền Nam còn dưới ách của Mỹ - Diệm
chưa biết sao đây, nên bà cương quyết từ chối. Cô gái bèn dẫn người yêu về thưa
chuyện cùng bố mẹ. Thấy mẹ của người yêu không chấp nhận, chàng lính tuy buồn,
song vẫn giữ thái độ đúng mực. “Tụi con thương nhau thiệt tình. Ba mẹ đồng ý gả
thì con… dui (vui) nhiều, nếu không thì con cũng… dui!”. Trong “Nghệ ngữ” tiếng
“dui” vừa là danh từ (chỉ cái dùi), lại vừa là động từ, chỉ việc “khoan, dùi lỗ”.
Nghe vậy, bà mẹ sảng hồn, liền khều lang quân xuống bếp “hội
ý”. Thôi ông ơi, gả đi cho rồi. Thằng Tư nói như rứa tức thị là hắn “dui” con
nhỏ rồi còn chi? Chẳng cần nghĩ ngợi nhiều, ông bố gật đầu cái rụp. Nhờ chuyện
bất đồng ngôn ngữ mà đôi trẻ nên duyên, bền chặt…
Sự phức tạp của tiếng Nghệ đã được vận dụng có hiệu quả
trong chiến tranh. Nhiều người biết Trung
tướng Lê Nam Phong, quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, là người có cả một kho chuyện. Thời
đánh Mỹ, ông từng là Sư trưởng một sư đoàn chủ lực chiến đấu ở miền Đông Nam Bộ.
Sau nhiều cuộc càn lớn, địch bắt được nhiều bức điện mật của ta. Sư đoàn trưởng
bèn chỉ thị cho cánh thông tin chọn 2 chiến sĩ quê Nghi Lộc ở hai đầu dây, dùng
tiếng Nghi Lộc đàm thoại qua vô tuyến để truyền đi mệnh lệnh chiến đấu tới các
đơn vị. Đối phương rà bắt được sóng vô tuyến của ta, song chúng nổi điên vì
không biết “vi xi” (VC) đã sử dụng ngoại ngữ gì, mà không tài nào dịch nổi! Các
chuyên gia mật mã của địch cũng bó tay vì không sao giải mã được nội dung cuộc
đàm thoại ấy. Mới đây, có dịp hầu chuyện cụ Phong (91 tuổi), tôi gợi lại chuyện
cũ, vị tướng chiến trận rung đùi cười vang: “Chuyện trạng ấy mà!”.