Toàn bộ bài thơ “Vận nước” có bốn câu được cấu trúc bởi hai cặp Nhân - Quả, theo quan niệm phổ biến của Phật giáo. Nó là khẳng định, nhưng nó cũng là giả định. Một vấn đề chính sự lớn lao như thế, bề bộn như thế, vẫn có thể là rất nhẹ nhàng, nếu như thuận theo lẽ trời (tự nhiên), thuận theo lòng người (tự nhiên). Thiền sư muốn nhắc nhở người cầm quyền tối thượng, đang ngồi trên ngai vàng kia, nếu như có đức lớn, thực hiện được vô vi, trước hết là ở nơi điện các (hiểu rộng ra tức tầng lớp lãnh đạo cao cấp) thì đất nước sẽ thái bình, vững mạnh… Những người cầm quyền, chèo lái con thuyền đất nước (nơi điện các) mà bất chính, vô đạo, thì không chỉ có loạn ở nơi điện các, mà còn là khiến trăm họ phải chịu cảnh lầm than, tạo cơ hội cho kẻ thù ngoại bang dòm ngó!




Về bài thơ "Vận nước" của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận

BÀI THƠ “QUỐC TỘ” NÓI GÌ?

VŨ BÌNH LỤC

Chúng ta đều biết, thơ của các Thiền sư thường rất kiệm lời. Tuy nhiên, lời ít nhưng tình ý phải nhiều, tối thiểu ngôn từ, tối đa cảm xúc, ý ở ngoài lời, đó mới chính là tiêu chí, là chỗ vi diệu của thơ.  Các thi nhân đời trước thường phải phấn đấu, phải lao tâm khổ tứ rất nhiều trong lao động nghệ thuật mới mong đạt đến cái đích của thơ hay. Mà cái hay tột đỉnh của thơ, bao giờ và cuối cùng cũng phải nhắm tới sự giản dị và chân thành. Do vậy, những thi phẩm đặc sắc còn lại mãi với thời gian đều rất giản dị, mà đọc mãi không chán, nghĩ mãi chưa hết! 
Ở nước ta, thơ Thiền thịnh hành ở thời Lý - Trần. Đến nay, phần nhiều đã thất lạc, do binh lửa liên miên, lại cũng vì bọn xâm lược phương Bắc dã tâm tàn phá nền văn hoá của ta, nên chúng liên tục tìm mọi cách huỷ diệt. Một số bài thơ Thiền còn sót lại đến ngày nay, dẫu là ít ỏi, nhưng cũng thật đáng quý vô cùng! Xin nói đôi điều về bài thơ "QUỐC TỘ" (Vận nước) của Thiền sư Pháp Thuận (915-990).
Phiên âm:            
ĐÁP QUỐC VƯƠNG QUỐC TỘ CHI VẤN
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh.
Dịch nghĩa:          
TRẢ LỜI NHÀ VUA HỎI VỀ VẬN NƯỚC
Vận nước như dây mây leo quấn quýt
Ở cõi trời Nam (mở ra) cảnh thái bình.
Vô vi ở nơi cung điện
(Thì) khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh.
Bản dịch thơ của Đoàn Thăng:

Vận nước như mây quấn,
Trời Nam mở thái bình.
Vô vi trên điện các,
Chốn chốn dứt đao binh.

Bản dịch của Vũ Bình Lục:
Vận nước như quấn dây mây,
Cõi trời Nam, đất nước này bình yên.
Vô vi điện các uy nghiêm,
Đao binh dứt hết, mọi miền an vui.

Đầu đề do các soạn giả sách "Thơ văn Lý - Trần" đặt là "TRẢ LỜI NHÀ VUA HỎI VỀ NGÔI NƯỚC".

Một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, đúng với nghĩa là bốn câu tuyệt diệu, dịch ra tiếng ta bây giờ cũng không lấy gì làm hiểm hóc, khó khăn cho lắm. Dịch giả Đoàn Thăng có lẽ cũng không mấy khó nhọc để dịch thành công bài thơ này. Nhưng tôi thực lòng cũng muốn đổi chữ “trên” của bản dịch thơ về với đúng nghĩa của nó, nghĩa là phải dùng chữ “nơi” (Vô vi nơi điện các) thì mới tỏ được thâm ý nhấn mạnh vai trò chủ thể của tác giả. 
Không được quên rằng đây là bài thơ mà Thiền sư Pháp Thuận viết để giả nhời vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn), khi nhà vua hỏi Thiền sư về việc nước. Thời Lý, các Thiền sư thường có vai trò rất lớn trong việc cố vấn chính sự cho các vị vua. Đơn giản vì các Thiền sư thường học rộng biết nhiều, kiến văn thâm hậu, đương nhiên bao giờ họ cũng là chỗ dựa tinh thần cho các vị vua, nhất là những ông vua xuất thân võ tướng, chỉ giỏi việc binh, còn việc trị nước thì ít người tài. Ấy là chưa nói sau đó lại còn có vị Thiền sư như Vạn Hạnh, tính toán việc đời như thần, sắp đặt cả giang sơn cho triều Lý con cháu ông một cách hoàn hảo, phải nói thêm là hoàn hảo đến mức tuyệt vời!
Hai câu đầu của bài "Quốc tộ" tác giả viết: “Vận nước như đằng lạc / Nam thiên lý thái bình” (Vận nước như dây mây quấn / Trời Nam mở ra muôn dặm thái bình). Chữ Quốc tộ có thể hiểu là Vận nước, cũng có thể hiểu là "việc nước", vận may của quốc gia, hoặc chỉ chính cái ngai vàng nhà vua đang ngự… Nhưng đây là câu hỏi của Lê Hoàn về việc nước, về vận mệnh của triều đại, đồng nghĩa với vận mệnh quốc gia, nên Thiền sư Pháp Thuận mới giả nhời rằng, khẳng định rằng “Vận nước như dây mây quấn quýt” lấy nhau, hết sức bền chặt. 
Quấn quýt, nhưng không phải là rối rắm, mà vẫn mạch lạc rường mối, trong ngoài hanh thông, chặt chẽ và vững bền. Có như thế và được như thế, thì ở cõi trời Nam này sẽ mở ra muôn dặm thái bình, bách tính mừng rỡ ca vui hoà hợp. Đó cũng là cái nhân và cái quả biểu hiện bằng giá trị sự linh diệu linh ứng của trời đất vậy!
Hai câu cuối: “Vô vi cư điện các / Xứ xứ tức đao binh” (Ở nơi cung điện mà vô vi / thì tất cả mọi nơi đều dứt hết chuyện đao binh)… Vô vi là một thuật ngữ trong Đạo đức kinh của Lão Tử, là một triết thuyết của Đạo Lão. Vô vi không có nghĩa là không làm gì cả, mà có nghĩa là thuận theo tự nhiên, không làm trái với tự nhiên. Đạo cũng chính là bản nguyên của vũ trụ.  Nhưng với Nho giáo của Khổng Tử thì vô vi được hiểu như là hệ quả của một nền chính trị tốt đẹp và ngược lại, một nền chính trị tốt đẹp phải đạt tới vô vi! Khổng Tử viết trong Luận Ngữ: “Vô vi nhi trị giả, kỳ Thuấn dã dư?” (vô vi mà thịnh trị, đó là vua Thuấn chăng?). Thuấn và Nghiêu là hai vị vua hiền. Ở thời Nghiêu và Thuấn, thiên hạ an lạc, ra đường không ai nhặt của rơi, ban đêm không phải đóng cửa, người người ấm no, vua nhàn nhã ngồi mà cai trị, chả phải khó nhọc gì. Chu Hi còn chú giải thêm cho rõ ý Khổng Tử: “Vô vi mà thịnh trị là vì bậc thánh nhân có đức thịnh, nên cảm hoá được nhân dân, không phải làm gì hơn”…  Xem thế thì đủ biết Thiền sư họ Đỗ dùng chữ Vô vi ở đây với đầy đủ các nghĩa của chữ này. Nghĩa là ở chính cái ngai vàng mà nhà vua đang ngự, ở chính nơi điện các này của nhà vua mà thực hiện được vô vi, mà đạt được đến vô vi, thì hiển nhiên “xứ xứ dứt binh đao” thiên hạ sẽ thái bình, đất nước sẽ vững bền như dây mây quấn quýt.
Toàn bộ bài thơ bốn câu được cấu trúc bởi hai cặp Nhân - Quả, theo quan niệm phổ biến của Phật giáo. Nó là khẳng định, nhưng nó cũng là giả định. Một vấn đề chính sự lớn lao như thế, bề bộn như thế, vẫn có thể là rất nhẹ nhàng, nếu như thuận theo lẽ trời (tự nhiên), thuận theo lòng người (tự nhiên). Thiền sư muốn nhắc nhở người cầm quyền tối thượng, đang ngồi trên ngai vàng kia, nếu như có đức lớn, thực hiện được vô vi, trước hết là ở nơi điện các (hiểu rộng ra tức tầng lớp lãnh đạo cao cấp) thì đất nước sẽ thái bình, vững mạnh. Ngày Nghiêu tháng Thuấn, điều ấy chẳng phải gắng sức khổ công, cũng tự nhiên phải đến, như một quy luật tất yếu của muôn đời vậy! 
Thế nhưng, lời nhắc khéo, lời khuyến cáo chân thành của vị Thiền sư đáng kính có kết quả thế nào sau đó? Chỉ biết rằng sau khi Lê Hoàn mất, các con ông chính là những kẻ ăn tàn phá hại, giết nhau tranh quyền đoạt lợi, chỉ nghĩ đến các thú vui của lũ nghiệt súc, đắm chìm trong váy lĩnh quần hồng, nên mới có cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn, xảy ra chính nơi điện các mà vị tiên đế Lê Hoàn từng nghe vị Thiền sư khả kính “thỉnh giảng”.
Bài thơ chỉ vẻn vẹn có hai mươi chữ, mà chứa chất nhiều tư tưởng lớn ở tầm vĩ mô, lại được diễn đạt bằng một hình thức hết sức giản dị. Tiếc thay, triều Tiền Lê không thực hiện được mong ước của Thiền sư, không thực hiện được vô vi ở nơi điện các, nên chỉ tồn tại được một thời gian ngắn ngủi. Thượng bất chính, hạ tắc loạn! 
Người xưa nói chẳng có sai. Những người cầm quyền, chèo lái con thuyền đất nước (nơi điện các) mà bất chính, vô đạo, thì không chỉ có loạn ở nơi điện các, mà còn là khiến trăm họ phải chịu cảnh lầm than, tạo cơ hội cho kẻ thù ngoại bang dòm ngó! Tình ý của bài thơ sâu sắc lắm thay!




Nguồn: Văn Nghệ Công An