Vì in tiểu thuyết "Hành quyết không pháp trường", đại tá – nhà văn Tôn Ái Nhân bị một vị thiếu tướng cho là cuốn sách có vấn
đề phải tiêu hủy. Trong bữa tiệc liên hoan tổng kết trại sang tác viết văn về đề
tài công an năm 2004 tại Hạ Long, trước hàng chục nhà văn và quan khách, vị tướng
còn lớn tiếng phê phán cuốn tiểu thuyết “Hành quyết không pháp trường” và
chỉ mặt nhà văn Tôn Ái Nhân, nói: “May là anh đã có quyết định về hưu, chứ
không tôi sẽ lột sao kỷ luật anh!”. Ngay tại đó, nhà thơ Trần Nhuận Minh đã lên
tiếng ca ngợi cuốn “Hành quyết không pháp trường” và phản bác lại,
nhưng ông tướng vẫn một mực đề nghị Cục xuất bản tiêu hủy. Thế là cuốn sách đi
toi, và suýt nữa thì án kỷ luật lớn lại đến với anh lúc xế chiều...
TÔN ÁI NHÂN VÀ NỖI ÁM ẢNH HÀNH QUYẾT KHÔNG PHÁP TRƯỜNG
VƯƠNG TÂM
Tôi có dịp đi trại
sáng tác với nhà văn Tôn Ái Nhân vài ba lần. Anh trực tính và hiền lành. Tôi
nghĩ thế. Lại có người nói, anh tuổi Ngọ nên “thẳng ruột ngựa”, nhưng bản tính
rất “Tôn Ái Nhân”; nghĩa là một nhà văn luôn thể hiện thái độ tôn trọng và yêu
thương con người. Vậy mà anh dễ bị vướng vào những sự cố bất thường…
Những hệ lụy khó tránh
Đúng vậy, ngay
khi nhỏ mới lớp 4, cậu học trò Đinh Khắc Khương (tên gốc của Tôn Ái Nhân - sinh
năm Nhâm ngọ) thấy đội Văn nghệ xã tập trung khá đông để tập vở “Bàng Quí Phi”
và diễn đi diễn lại nhiều lần, vì bận diễn nên xã miễn không phải đi đắp đê. Thấy
vô lý, trò Khương bực mình viết luôn bài phê phán trên báo Cứu Quốc, mục Mấy
nét sổ tay ký tên Tuấn Sĩ, trong đó có câu: “Nay Bàng Phi, mai lại Quí
Phi/ Dân công trốn tránh chẳng đi đợt nào/ Văn nghệ ai cũng muốn vào, thì còn
biết để người nào đắp đê?... Bị bêu xấu xã trên báo, ồn cả làng. Thế là cậu
bị cán bộ xã lên án và trù dập. May mà năm đó thi hết cấp I, văn cậu đạt điểm
mười, giải nhất khu Hồng Quảng phải rời quê xã Phả Lễ chuyển sang Quảng Yên học
cấp II. Thế là yên chuyện...
Sau đó một thời
gian bố mất, kinh tế quá khó khăn, trò Khương đã phải học lỏm nghề vẽ truyền thần
để lấy tiền tự lo ăn học. Cứ thế, tằng tằng Đinh Khắc Khương lên lớp và thi đỗ
cấp III, nhưng phải ra Hòn Gai học, rồi lên lớp10 lại phải chuyển trường sang Cẩm
Phả.
Ở đây, Đinh Khắc
Khương vẫn phải đến hiệu truyền thần vẽ thuê để lấy tiền sinh sống và ăn học tiếp.
Rồi bỗng nhiên có một cán bộ trinh sát người cùng quê đến xem và nhờ vẽ ảnh
mình. Bức vẽ rất đẹp, cán bộ trinh sát này liền đem khoe với mọi người, trong
đó có Trưởng ty công an Quảng Ninh, Ông Trưởng ty thấy thế liền lấy luôn chiếc ảnh
cũ của mẹ đã mờ nhờ vẽ lại. Không ngờ khi nhận bức vẽ ông thấy rất giống và đẹp.
Ngay lập tức ông Trưởng ty nói với cán bộ trinh sát “Xem lại lý lịch gia đình
và nguyện vọng cậu ta, nếu được thì tuyển vào ngành đi”. Thế là đầu năm 1965,
Đinh Khắc Khương được vào ngành và đi học nghiệp vụ công an 18 tháng, rồi ra
làm trinh sát. Thấy anh có năng khiếu viết báo, chụp ảnh công an tỉnh liền điều
về phòng Chính trị với nhiệm vụ viết báo và chụp ảnh tuyên truyền cho cuộc chiến
đấu của ngành. Từ đó, bút danh Tôn Ái Nhân bắt đầu xuất hiện qua những bài báo
và truyện của ngành công an. Anh tâm nguyện với lý tưởng văn chương là chống
cái ác, ngợi ca cái thiện và bảo vệ người lương thiện.
Năm 1973, Tôn Ái
Nhân được cử đi học Trường bồi dưỡng Viết văn trẻ khóa 6, ở Quảng Bá (Hà Nội).
Tốt nghiệp, anh được điều về Phòng sáng tác Bộ Công an để đi viết truyện các
anh hùng. Được gần một năm thì Công an Quảng Ninh lại đòi anh về để đi viết bài
và chụp ảnh phục vụ cho chiến đấu.
Thời kỳ này,
Công an tỉnh có lịch là ngày thứ 7 lãnh đạo trực tiếp gặp dân để giải quyết các
đơn khiếu nại của họ, nên Tôn Ái Nhân thường xin ngồi nghe và anh đã thấu hiểu
nỗi day dứt, trái ngang của người dân mỏ. Anh đã cùng nhà văn Lý Biên Cương đưa
một số vụ lên báo Quảng Ninh như vụ chị Hợi công nhân ở mỏ Hà Tu bị
giám đốc mỏ trù dập. Kết quả bài báo đã gây dư luận lớn đem lại công bằng cho
chị, làm anh phấn khởi càng hăng hái viết bài bảo vệ quyền lợi phụ nữ. Cũng vì
thế nên năm 1979, một sự cố bất ngờ xảy ra khi Tôn Ái Nhân viết bài bênh vực
hai nữ công nhân ở công ty Xây lắp mỏ Hòn Gai bị lãnh đạo trù úm, hành hạ.
Không hiểu sao khi bài và ảnh của anh đăng trên báo Phụ nữ Việt Nam (khi
ấy anh là cộng tác viên của báo) thì giám đốc đùng đùng nổi giận bắt anh nghỉ
công tác, đình chỉ việc thực tập làm phó phòng để viết bản kiểm điểm vì tội viết
báo vô ý thức tổ chức kỷ luật, không xin phép lãnh đạo và câu kết với báo trung
ương đả kích, bôi xấu lãnh đạo địa phương. Cứ thế liên tục suốt mấy tháng trời,
anh viết kiểm điểm và ngồi kiểm điểm, không được viết báo, không được đi Hà Nội,
chỉ ở trong phòng tối rửa ảnh. Đồng thời, anh còn phải nhận kỷ luật khai trừ Đảng
không được phong hàm, tăng lương. Cũng may, bài báo đã gây tiếng vang mạnh,
giám đốc Xây lắp mỏ ra tòa, hai nữ công nhân không còn bị hành hạ trù dập nữa.
Rồi với sự can thiệp của Hội phụ nữ tỉnh Quảng Ninh và Hội phụ nữ Việt Nam cũng
như sự bảo vệ khá tích cực của nữ nhà văn Thanh Hương tổng biên tập báo Phụ
nữ Việt Nam đã xin Bộ Công an điều Tôn Ái Nhân về Hà Nội. Và năm 1982 Tôn
Ái Nhân đã được công văn của Bộ điều về làm biên tập viên tại Nhà Xuất bản Công
an. Kết thúc những ngày sóng gió ở công an Quảng Ninh. Và ở đây án kỷ luật Đảng
của anh cũng được giảm.
Ngỡ như cánh diều
gặp gió, khi nhà văn Tôn Ái Nhân được rời mỏ than ở Quảng Ninh, về khai thác mỏ
chữ ở Hà Nội. Vậy mà anh vẫn bị trắc trở, với hai lần bị làm kiểm điểm vào các
năm, 1984 cũng vì bài báo phê phán sách vụ án in trên báo Văn nghệ và
2004 vì in sách bị một vị thiếu tướng cho là cuốn sách có vấn đề phaỉ tiêu hủy.
Trong bữa tiệc liên hoan tổng kết trại sang tác viết văn về đề tài công an năm
2004 tại Hạ Long, trước hàng chục nhà văn và quan khách, vị tướng còn lớn tiếng
phê phán cuốn tiểu thuyết “Hành quyết không pháp trường” và chỉ mặt
nhà văn Tôn Ái Nhân, nói: “May là anh đã có quyết định về hưu, chứ không tôi sẽ
lột sao kỷ luật anh!”. Ngay tại đó, nhà thơ Trần Nhuận Minh đã lên tiếng ca ngợi
cuốn “Hành quyết không pháp trường” và phản bác lại, nhưng ông tướng
vẫn một mực đề nghị Cục xuất bản tiêu hủy. Thế là cuốn sách đi toi và suýt nữa
thì án kỷ luật lớn lại đến với anh lúc xế chiều! Nhớ lại, Tôn Ái Nhân cũng tự
nhận số anh không may mắn, mà luôn luôn như con tàu xuýt bị chìm nghỉm mấy lần,
trên biển khơi. Anh ví mình lái con tàu bị ngược dòng, có lúc cố vượt qua sóng
lừng, nhưng bị văng xuống biển. Có người ví anh là chàng kỵ sĩ vật lộn với cây
giáo nhưng múa không khéo lại quệt vào chân mình. Sau nhiều lần bị kiểm điểm vì
tai họa nghề nghiệp, anh trở nên trầm lắng và dồn sức viết trong hơn 5 năm trời,
hoàn thành 1000 trang cuốn tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày (NXB Văn Học -
2014). Đây cũng là cuốn sách được dư luận đánh giá cao với chất sử thi hào hùng
của cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại của dân tộc ta. Đó chính là kỷ lục của
năm, một pho tiểu thuyết sử thi thật hoành tráng, mấy ai viết được dầy đến thế.
Lại thêm những kỷ lục
Tuy số lượng tác phẩm của nhà văn Tôn Ái Nhân không nhiều, chỉ khoảng 10 cuốn
tiểu thuyết và mấy tập truyện vừa, nhưng số trang viết của anh lại lớn. Ngoài kỷ
lục của pho Ký ức gã ăn mày, anh còn ghi thêm những kỷ lục, với tiểu thuyết Trinh
sát Hà Nội. Trước hết, đây là tác phẩm văn học đầu tiên viết về các chiến sĩ
công an được giải thưởng văn học. Đó là giải thưởng Hồ Gươm, 5 năm (1981-1986).
Hiện anh còn đang giữ kỷ lục, tác phẩm Trinh sát Hà Nội đoạt giải, được
tái bản tới 7 lần. Chưa hết, riêng cuốn tiểu thuyết Oan trái của anh
được in tới 40.000 cuốn, cũng là kỷ lục của một tác phẩm mà ít tác giả đạt được.
Có một kỷ niệm vui đối với nhà văn Tôn Ái Nhân khi anh làm lễ thành hôn, năm
1982, thì toàn bộ nhân vật có thật ở ngoài đời được anh viết trong tiểu thuyết Trinh
sát Hà Nội đều có mặt dự đám cưới. Thêm nữa, những nhân vật này còn được gặp
gỡ và trò chuyện với đạo diễn điện ảnh Thanh Loan khi làm phim tài liệu dàn dựng
kịch bản về các chiến sĩ trinh sát Hà Nội, qua tiểu thuyết của Tôn Ái Nhân.
Vậy mà cuốn tiểu
thuyết “Trinh sát Hà Nội” vẫn có những hệ lụy cho dù thật sự kỳ lạ.
Vì đây là cuốn sách viết về con người thật cùng với việc xẩy ra có thật, nên có
những phiền toái dẫn đến, mà tác giả chẳng thể ngờ tới. Có gia đình thấy tên
người thân trong cuốn sách bị mất tích, thế là họ đến gặp tác giả xác minh lại
và đòi xin hưởng chế độ chính sách liệt sĩ. Quả là gây khó cho tác giả. Lại còn
có người, chỉ là nhân vật phụ trong tiểu thuyết, nhưng khi ở ngoài đời đi đánh
bạc bị công an bắt, đã xì cuốn “Trinh sát Hà Nội” và tờ giấy giới thiệu
của nhà văn bỏ quên để xin tha tội. Thì ra đó là giấy giới thiệu của Bộ Công an
cho nhà văn đến gặp người này lấy tài liệu, nhưng tác giả không nhớ giữ lại,
nên đã bị lợi dụng. Thậm chí, có một nhân vật khác mắc tội dẫn gái mại dâm, khi
bị bắt cũng giơ cuốn tiểu thuyết này ra, kể công mình đã giúp công an làm nhiệm
vụ. Sau đó anh ta còn đòi tác giả đến can thiệp gỡ tội cho mình. Nhưng tác giả
cũng bó tay. Cuối cùng anh ta vẫn bị bắt giam và đưa ra xét xử.
Phải nói sức làm việc của nhà văn Tôn Ái Nhân thật nhẫn nại và bền bỉ với thời
gian. Anh ấp ủ những dự định và bao giờ cũng đi đến cùng, cho dù khó khăn trắc
trở. Kỷ lục, có những cuốn sách anh viết ròng rã, sửa đi sửa lại kéo dài tới 12
năm mới hoàn thành. Vậy mà vẫn bị thất bại, khi in ra thì không được phát hành,
phải hủy. Và may không bị kỷ luật vì đã về hưu. Nhưng không nản, sau đó anh đã
âm thầm chịu đựng và lại cầm bút viết, liền tù tì 1000 trang cho cuốn sau. Hầu
hết, những cuốn tiểu thuyết của anh đều khai thác sâu sắc về thân phận con người
và từ hơn 300 trang trở lên. Anh không vội vàng bởi luôn luôn tuân thủ theo
tiêu chí của mình đề ra: “Hãy đặt trái tim lên lòng bàn tay mà viết”. Tôn Ái
Nhân quan niệm, nhà văn không dũng cảm sẽ không viết được sự chân thật về
chính, tà và cái số phận của con người! Nhưng nhà văn muốn dũng cảm, trước tiên
phải sống thiện, phải có một cái tâm sáng, tấm lòng yêu thương con người thật sự
và bất chấp sự thiệt thòi đối với mình.
Vẫn còn đó, tiểu thuyết mới 1000 trang…
Tôi còn nhớ, mở đầu cuốn tiểu thuyết “Ký ức gã ăn mày”, nhà văn Tôn Ái
Nhân đã viết tựa đề: “Chiến trường ai khóc chia phôi. Khải hoàn ai nhớ đến người
hôm qua”. Đó là nỗi niềm rung động, trong tâm hồn nhà văn, đồng thời cũng là đối
tượng mà anh luôn luôn hướng tới. Cuộc đời sóng gió, và tràn đầy lãng mạn của
người chiến sĩ công an là hình tượng nghệ thuật, mà nhà văn Tôn Ái Nhân tập
trung miêu tả. Anh coi đó là một kho vàng khai thác mãi không bao giờ cạn.
Chính vì thế, anh đã bắt tay vào viết cuốn sách mới về chiến công của những
người công an trong công cuộc cách mạng tháng Tám, mở ra một kỷ nguyên mới của
lịch sử dân tộc. Đây là đề tài mà chưa ai đụng chạm tới. Anh sợ sự lãng quên với
tâm thức: “Khải hoàn ai nhớ đến người hôm qua”. Cũng phải tới ngàn trang! Khi
tôi hỏi anh gật đầu nói, hẳn phải đến thế, bởi kho tư liệu và những ghi chép của
anh hàng chục năm nay khá đồ sộ. Một ấp ủ thật sự bất ngờ, nhưng anh đã viết
hai năm nay được vài trăm trang, với cái tên tạm đặt: Đất thiêng giận dữ.
Rất có thể con ngựa già này sẽ lại phải lầm lũi dăm năm nữa, trên con đường trường
chinh bụi đỏ, bao nỗi truân chuyên để đi tới cái đích rỡ ràng đang phía trước.