Trong tác phẩm
“Văn thi sĩ Tiền Chiến”, nhà thơ Nguyễn Vỹ (1912-1971) với tư cách người cùng
thời, đã hé lộ: “Nguyễn Nhược Pháp chuyên môn đi xe đạp, và chỉ có mình anh
trong giới văn sĩ là đi xe đạp mà thôi. Chiếc xe đạp của anh cũng là một loại
xe độc đáo: không có chuông, dây xích cứ tuột ra ngoài, mỗi lần anh đạp là nó
kêu cụt kịt, cụt kịt như một con lợn sắt. Nguyễn Nhược Pháp có cái miệng hơi
móm, chiếc xe đạp của anh cũng móm… Nguyễn Nhược Pháp đeo đuổi một cô nàng mà
anh chỉ say mê vì một chiếc áo đen và đôi mắt đen như hai hạt huyền. Vì nàng mà
anh đã viết những bài thơ tuyệt diệu!”.
NGUYỄN NHƯỢC PHÁP VÀ MỐI TÌNH HƯ ẢO THUỞ EM ĐI CHÙA HƯƠNG
TUY HÒA
Nhà thơ Nguyễn
Nhược Pháp (1914-1938) sống trên dương gian vỏn vẹn 24 năm, nhưng hậu thế không
thể nào quên ông là tác giả bài thơ “Chùa Hương” ghi dấu tâm hồn bao lớp người
hâm mộ. Nhân kỷ niệm 80 năm nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp qua đời, một tuyển tập đầy
đủ nhất của Nguyễn Nhược Pháp từ trước đến nay, được NXB Phụ Nữ ấn hành với tên
gọi “Hoa một mùa” vào tháng 11-2018.
Cuốn sách “Hoa một
mùa” in trọn vẹn những tác phẩm Nguyễn Nhược Pháp để lại trên cõi nhân sinh, gồm
3 truyện ngắn (Tình trẻ thơ, Mẹ và con, Bức thư), 6 vở kịch (Một chiều chủ nhật,
Khỏi nấc, Sầm Sơn, Bữa cơm, Người học vẽ, Người lao), 10 bài thơ (Chùa Hương,
Sơn Tinh - Thủy Tinh, Mỵ Châu, Giếng Trọng Thủy, Tay ngà, Mỵ Ê, Một buổi chiều
xuân, Nguyễn Thị Kim khóc Lê Chiêu Thống, Đi cống, Mây) và 10 bài phê bình bằng
tiếng Pháp (về Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan, truyện Vua Hàm Nghi, Đời mưa gió, bài
thơ Vần và điệu, sân khấu kịch đương thời...). Đây là những tác phẩm Nguyễn Nhược
Pháp đã viết trong giai đoạn vừa học Luật vừa đi làm báo để kiếm tiền phụ giúp
gia đình. Người biên soạn cuốn sách “Hoa một mùa” là ông Nguyễn Lân Bình – cháu
gọi nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp là bác ruột, chia sẻ: "Cuốn sách gồm hầu hết
sáng tác văn học của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp. Tôi đã dâng cuốn sách trước
phần mộ của ông và thưa rằng: Chúng con biết ơn ông, biết ơn những giá trị văn
hóa mà ông đã để lại cho đời, và đã giúp chúng con ngẩng cao đầu!”.
Nhiều người đã biết, nhà thơ Nguyễn Nhược
Pháp là con trai của học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936). Học giả Nguyễn Văn
Vĩnh từng làm chủ bút Đông Dương tạp chí, nhưng từ cuối thập niên 20 của thế kỷ
20 thì kinh tế sa sút dần. Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp là con của người vợ nhỏ
Phan Thị Lựu. Khi Nguyễn Nhược Pháp mới được 2 tuổi, thì bà Phan Thị Lựu mất.
Người vợ lớn của học giả Nguyễn Văn Vĩnh đã đưa Nguyễn Nhược Pháp về nhà sống
chung với những anh em cùng cha khác mẹ như Nguyễn Hải, Nguyễn Giang, Nguyễn Thị
Loan, Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Dương, Nguyễn Văn Phổ, Nguyễn Kỳ,
Nguyễn Thị Mười, Nguyễn Dực… Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp trong ký ức của em gái
Nguyễn Thị Mười như sau: “Anh Nguyễn Nhược Pháp lớn lên cùng chúng tôi từ năm
lên 2 tuổi, sau khi mẹ anh tự vẫn (do thầy tôi cưới vợ ba 17 tuổi là người
Pháp). Tụi tôi luôn nghĩ anh Nguyễn Nhược Pháp là con ruột của mẹ. Tụi tôi yêu
quý bám anh Nguyễn Nhược Pháp bất cứ lúc nào có thể. Anh Nguyễn Nhược Pháp đẹp
trai nhất nhà, thông minh, nhạy cảm và luôn là linh hồn trong mọi cuộc vui gia
đình. Anh Nguyễn Nhược Pháp nghĩ ra các trò chơi đánh trận giả, làm xiếc cho lứa
em nhỏ, viết và dựng kịch diễn trong nhà. Gặp đoạn văn tiếng Pháp khó, tụi tôi
cũng cầu cứu anh Nguyễn Nhược Pháp. Anh Nguyễn Nhược Pháp được mẹ ưu tiên xếp một
phòng riêng để làm việc! Mỗi đứa em thích một bài thơ khác nhau của anh Nguyễn
Nhược Pháp, có đứa thích bài thơ “Chùa Hương”, riêng tôi thích bài thơ “Sơn
Tinh Thủy Tinh” và mong nó được chuyển thành phim hoạt hình!”
Sau khi có bằng Tú Tài, Nguyễn Nhược Pháp
vào trường Luật chung khóa với thi sĩ Phạm Huy Thông – tác giả “Tiếng địch sông
Ô”. Ngoài giờ học, Nguyễn Nhược Pháp cộng tác Hà Nội báo, Đông Dương tạp chí,
Ngày Nay, Tinh Hoa... Mỗi ngày, đến giảng đường hoặc đến tòa soạn, Nguyễn Nhược
Pháp đều tìm cớ đi ngang ngôi nhà 37 Hàng Đẫy (phố Hàng Đẫy bây giờ là phố Nguyễn
Thái Học) vì ở đó có mỹ nhân Đỗ Thị Bính. Nhỏ hơn Nguyễn Nhược Pháp một tuổi, Đỗ
Thị Bính là con gái của nhà tư sản Đỗ Lợi (1893-1961, một nhân vật làm nghề thầu
khoán giàu có nhất Hà Nội đầu thế kỷ 20). Nức tiếng xinh đẹp, Đỗ Thị Bính được
xưng tụng tứ đại mỹ nhân Hà Thành (cùng với cô Phượng – Hàng Ngang, cô Síu – Cột
Cờ và cô Nga – Hàng Gai) lúc bấy giờ. Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp mặc cảm gia cảnh
nghèo khó chưa bao giờ dám ngỏ lời công khai với tiểu thư khuê các Đỗ Thị Bính,
nhưng mối tình của họ được nhiều người nhận ra. Trong tác phẩm “Văn thi sĩ Tiền
Chiến”, nhà thơ Nguyễn Vỹ (1912-1971) với tư cách người cùng thời, đã hé lộ:
“Nguyễn Nhược Pháp chuyên môn đi xe đạp, và chỉ có mình anh trong giới văn sĩ
là đi xe đạp mà thôi. Chiếc xe đạp của anh cũng là một loại xe độc đáo: không
có chuông, dây xích cứ tuột ra ngoài, mỗi lần anh đạp là nó kêu cụt kịt, cụt kịt
như một con lợn sắt. Nguyễn Nhược Pháp có cái miệng hơi móm, chiếc xe đạp của
anh cũng móm… Nguyễn Nhược Pháp đeo đuổi một cô nàng mà anh chỉ say mê vì một
chiếc áo đen và đôi mắt đen như hai hạt huyền. Vì nàng mà anh đã viết những bài
thơ tuyệt diệu!”.
Khi tương tư mỹ
nhân Đỗ Thị Bính, bối cảnh sống của Nguyễn Nhược Pháp cũng được chính ông tự
thú: “Thường khách tài hoa mê nàng Đẹp/ Thay cơm bằng hai xu phở bò/ Có khi óc
đầy nhưng bụng lép/ Thu chăn đành ngủ dài cho no”. Thế nhưng, mỗi ngày nấn ná
trước cánh cổng của ngôi nhà 37 Hàng Đẫy, vẫn dạt dào cảm hứng trong lòng Nguyễn
Nhược Pháp khi được chiêm ngưỡng người đẹp: “Cúi đầu nàng tha thướt/ Yêu kiều
như mây qua/ Mắt xanh nhìn man mác/ Mỉm cười vê cành hoa”. Đặc biệt, bài thơ
“Chùa Hương” dù ghi chú “Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa”, nhưng hình bóng
“em tuy mới mười lăm” phảng phất dáng vẻ mỹ nhân Đỗ Thị Bính: “Hôm nay đi Chùa
Hương/ Hoa cỏ mờ hơi sương/ Cùng thầy me em dậy/ Em vấn đầu soi gương/ Khăn nhỏ,
đuôi gà cao/ Em đeo dải yếm đào/ Quần lĩnh, áo the mới/ Tay cầm nón quai thao”.
Tuy nói mông lung, nhưng Nguyễn Nhược Pháp cũng để bản thân xuất hiện trong
không gian “Chùa Hương” khá lãng mạn: “Mơ xa lại nghĩ gần/ Đời mấy kẻ tri âm/ Thuyền
nan vừa lẹ bước/ Em thấy một văn nhân/ Người đâu thanh lạ thường/ Tướng mạo
trông phi thường/ Lưng cao dài, trán rộng/ Hỏi ai nhìn không thương.../ Dòng
sông nước đục lờ/ Ngâm nga chàng đọc thơ/ Thầy khen: "Hay! Hay quá!”/ Em
nghe rồi ngẩn ngơ”.
Bài thơ “Chùa
Hương” được phổ nhạc và quen thuộc với công chúng khắp nơi. Mối tình với mỹ
nhân Đỗ Thị Bính được Nguyễn Nhược Pháp không chỉ gửi gắm trong bốn câu kết “Ngun
ngút khói hương vàng/ Say trong giấc mơ màng/ Em cầu xin Giời Phật/ Sao cho em
lấy chàng” mà còn thể hiện ở đoạn vĩ thanh “Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin
rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy
nhau rồi là hết chuyện”. Đáng tiếc, đoạn kết ấy chỉ có trong sương khói tưởng
tượng mà thôi!
Trong cuốn “Thi
nhân Việt Nam”, Hoài Thanh – Hoài Chân nhận xét về nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp:
“Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn
Nhược Pháp… Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoảng thấy bóng một
người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những
lối bông lơn khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất, Tú Xương đến Tú Mỡ. Nó hiền
lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó có một địa vị trên thi
đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới quý: với Nguyễn Nhược Pháp, nụ cười trên miệng
bao giờ cũng kèm một ít cảm động trong lòng. Những cảnh, những người đã khiến
thi nhân cười cũng là những cảnh, những người thi nhân mến… Một điều lạ là những
câu tình tứ ghép vào bên cạnh những câu đến buồn cười mà không chút bỡ ngỡ. Cái
duyên của Nguyễn Nhược Pháp là ở đó!”. Trong những câu thơ vừa trữ tình vừa hài
hước của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, có bao nhiêu niềm riêng dành cho mỹ nhân Đỗ
Thị Bính? Không thể kết luận chính xác, nhưng độc giả nhiều thế hệ sau phải tri
ân người đẹp đã mang lại cảm hứng để nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp miêu tả ân cần "Tóc
xanh viền má hây hây đỏ/ Miệng nàng bé thắm như san hô/ Tay ngà trắng nõn, hai
chân nhỏ/ Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ" và tương tư xao xuyến “Ta lặng
nhìn hơi lâu/ Nhưng thì giờ đi mau.../ Nàng chợt nghiêng thân ngà/ Thoáng bóng
người xa xa.../ Ta mơ chưa lại hồn/ Nàng lẹ gót lầu son/ Vừa toan nhìn nét phượng/
Giấy thẹn bay thu tròn...”
Ngày 19-11-1938,
Nguyễn Nhược Pháp trút hơi thở cuối cùng, để lại một nỗi u hoài “Đi vui rồi vẩn
vơ/ Hay đâu thức còn mơ/ Lạc vào trong vườn mộng/ Mồm vẫn còn ngâm thơ!”. Mỹ nhân
Đỗ Thị Bính về sau kết hôn với kỹ sư Bùi Tường Viên và có cuộc sống rất êm ấm.
Bà Đỗ Thị Bính theo gia đình đi kháng chiến, rồi từ sau năm 1954, công tác tại
phòng giáo dục quận Hai Bà Trưng- Hà Nội. Bà Đỗ Thị Bính qua đời năm 1992, hưởng
thọ 77 tuổi, để lại một hồi ức tốt đẹp, như con gái Bùi Thị Mai thổ lộ: “Mẹ tôi
dáng cao, da trắng hồng. Bà thường mặc đồ đen như một sở thích và cũng bởi
trang phục màu đen tôn lên làn da trắng của bà, khiến bà vừa bí ẩn vừa cuốn
hút. Có lẽ, đó cũng là lý do để người đời gọi bà là "người đàn bà áo
đen". Theo những gì tôi được mẹ kể, ngày mẹ lên xe hoa, mẹ cũng chưa có
tình cảm với bố tôi. Trước đó họ cũng chưa từng gặp mặt lần nào. Khi về ở cùng,
bà mới bắt đầu dành nhiều tình cảm cho chồng. Bởi lẽ, tính cách và con người của
bố tôi đã khiến trái tim bà rung động… Mẹ luôn nghĩ tất cả mọi người đều tốt,
xã hội không có ai là người xấu cả. Mẹ yêu thương tất cả mọi người và cả những
loài động vật. Đến tận khi mẹ tôi đã ngoài 70, sở thích đọc tiểu thuyết của bà
vẫn không thay đổi. Bà thường ra hiệu sách mượn về đọc đến quên ăn quên ngủ”. Mẹ
tôi cả đời thích mặc áo màu đen. Khi mẹ mất, tôi mặc cho bà một áo cánh màu
vàng mỡ gà trong cùng, bên ngoài là áo dài bằng vải lụa đen, ngoài cùng khoác
cho mẹ một áo dạ Mông Tự màu đen tuyền như theo di nguyện mẹ yêu đồ đen”./.