Một họa sĩ - tiến
sĩ nghệ thuật, từng giữ chức vụ quan trọng ở cấp thành phố, sau khi rời nhiệm sở
đã phối hợp với một bảo tàng thực hiện triển lãm tranh của cá nhân ông. Trong
chùm tranh ông gửi để xin phép theo quy định, có một bức tranh không qua được cửa
kiểm duyệt. Đó là bức vẽ cảnh trăng trên rừng Trường Sơn với những vệt màu mô tả
hình ảnh phụ nữ đang khỏa thân tắm suối. Ý kiến của vị nắm quyền kiểm duyệt về
bức tranh này là “Trường Sơn là một biểu tượng thiêng liêng của dân tộc chúng
ta mà lại vẽ có cảnh tắm suối khỏa thân, mất tôn nghiêm. Mặt khác, đã xem trộm
người ta tắm mà còn vẽ ra là không đàng hoàng. Không đồng ý cho triển lãm bức
tranh này”.
Kiểm duyệt văn
hóa nghệ thuật có hạn chế sáng tạo?
NGUYỄN THẾ
THANH
Để trả lời câu hỏi
ở tựa bài viết này thiết nghĩ cần tới một cuộc trao đổi nghiêm túc và có thể sẽ
kéo dài. Bởi lẽ hiện nay vẫn tồn tại hai khuynh hướng khá rõ rệt: một, để đảm bảo
tự do sáng tạo thì không cần tới kiểm duyệt, cứ để tác phẩm xuất hiện, sai đúng
thế nào thì cơ quan quản lý của nhà nước vẫn còn thời gian để “phạt”, “thu hồi”.
Hai, nên/cần có kiểm duyệt để đảm bảo cái sai, cái xấu không thể lan truyền và
gây tác hại.
Nhưng nhìn nhận
về cái sai, cái đúng; cái hay, cái dở của văn hóa nghệ thuật thì vẫn còn có khoảng
cách không nhỏ giữa người giữ vai trò kiểm duyệt với đối tượng kiểm duyệt và thậm
chí với chính những người trong đội ngũ kiểm duyệt! Vậy mới nói, đi tìm câu trả
lời tạm đúng giữa hai khuynh hướng ấy là một việc khó khăn, khó lòng nhanh
chóng và thấu đáo trong bối cảnh chính trị hiện tại ở Việt Nam.
Đứng trước sự
khó khăn còn lâu dài, tôi chọn cách dễ hơn và cũng chả chắc đã được xem là tạm
thấu đáo để bàn một chút về kiểm duyệt văn hóa.
Trước hết, dù muốn
hay không cũng phải thừa nhận là nguyên tắc kiểm duyệt văn hóa, cho đến nay,
không phải chỉ được thực hiện ở Việt Nam mà ở rất nhiều nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới. Và, cũng đã có những quốc gia từng thực hiện rồi lại bỏ kiểm duyệt
văn hóa, Hàn Quốc là một trong số đó. Ngay ở Việt Nam, trước năm 1954 vấn đề kiểm
duyệt vẫn diễn ra ở các chiều kích khác nhau.
Thuở đó, các
vùng dưới quyền kiểm soát Pháp như các thành phố Hà Nội, Huế và Sài Gòn đều có
nhà xuất bản âm nhạc. Các ấn phẩm được in với hai chữ “k.d.” (kiểm duyệt) với
con số và ngày chứng minh rằng bài ca này được cấp phép lưu hành. Một điều
đương nhiên thuở đó nữa là nhạc cách mạng không được xuất bản ở vùng Pháp kiểm
soát và ở vùng kháng chiến thì nhạc của nhạc sĩ vùng Pháp không được lưu hành
(tất nhiên, ở cả hai vùng ấy, người ta vẫn hát thầm những bài hát mà họ thích
dù bị cấm). Từ thời đó Việt Nam đã có hai thế giới âm nhạc hoàn toàn riêng biệt.
Trở lại chủ đề
chính của bài viết này, có ba câu chuyện theo tôi cần quan tâm khi chấp nhận
nguyên tắc kiểm duyệt văn hóa trong hiện tại.
Thứ nhất, về cấp
hành chính của việc kiểm duyệt. Tôi nghĩ hợp lý nhất là sản phẩm văn hóa xuất
hiện ở địa phương nào thì do cơ quan kiểm duyệt văn hóa ở địa phương đó chịu
trách nhiệm. Ví dụ: một sản phẩm băng dĩa ca nhạc hoặc chương trình biểu diễn
ca nhạc - sân khấu - trình diễn thời trang - triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh, cần
xuất hiện ở TPHCM, dù đến từ Việt Nam hay từ quốc gia khác, thì chỉ cần sở văn
hóa và thể thao của thành phố này kiểm duyệt và cấp phép. Sau giấy phép mang
tính kiểm duyệt đó, theo đúng các quy định dành cho đối tượng trong nước và nước
ngoài, không được có bất cứ yêu cầu nào khác của cấp nào khác can thiệp vào. Nếu
sau đó có phát hiện sai phạm thì tùy theo mức độ vi phạm cơ quan kiểm duyệt sẽ
bị xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật (đối với cán bộ, công chức)
hoặc trách nhiệm hình sự.
Đối với sản phẩm
văn hóa đã được kiểm duyệt để lưu hành, ngoài việc phải có giá trị trên toàn Việt
Nam, còn cần quy định rõ cấp kiểm duyệt nào cấp phép thì chỉ cấp ấy mới có quyền
và trách nhiệm thu hồi hoặc hủy bỏ giấy phép đã cấp. Cần phải quan tâm đến vấn
đề này vì trong một thời gian rất dài đã tồn tại ở Việt Nam một quy định mang
tính “vô hiệu hóa quyền của cơ quan kiểm duyệt”, đó là: sau khi nhận được giấy
phép lưu hành do sở văn hóa địa phương cấp, đơn vị được cấp phép vẫn phải gửi sản
phẩm lên cơ quan quản lý văn hóa cấp trên (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch -
VH-TT&DL) để kiểm duyệt một lần nữa và dán tem! Quy định này chỉ được bãi bỏ
tại Nghị định 79/2012. Mặt khác, đến nay vẫn tồn tại một quy định vừa bất hợp
lý vừa bất hợp tình theo tôi cần phải sửa đổi, đó là: thay vì Bộ VH-TT&DL
giữ quyền kiểm duyệt và cấp phép cho các chương trình của người Việt Nam ở nước
ngoài thì nên giao việc đó cho sở VH-TT&DL các tỉnh, thành như đối với các
sản phẩm văn hóa đến từ nước ngoài mà các cơ quan này gần đây đã được giao.
Thứ hai, khi đã
chấp nhận thực hiện các quy định ở câu chuyện thứ nhất về thẩm quyền của cấp kiểm
duyệt thì câu chuyện trình độ của đội ngũ kiểm duyệt là vô cùng quan trọng. Người
có trách nhiệm kiểm duyệt cần phải đủ tinh tường và cả tinh tế để cái xấu không
bị lọt qua lưới kiểm duyệt nhưng cái đẹp cũng không bị chính cái lưới ấy khai tử.
Có thể ví von
người làm quản lý nhà nước về văn hóa, người có chức trách kiểm duyệt văn hóa vừa
phải như cảnh sát lại vừa phải như bà đỡ. Cảnh sát là để “thổi còi” đúng lúc,
đúng chỗ những gì không được phép làm trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Còn bà
đỡ là để biết nâng niu giá trị sáng tạo nghệ thuật vừa mới ra đời, biết làm gì
để biết nó đáng sống và giúp nó tiếp tục sống khỏe mạnh. Thiếu cả hai kỹ năng
trên đây, khó có thể làm người kiểm duyệt mà sự phát triển xã hội lành mạnh, tiến
bộ cần tới.
Có một câu chuyện
có thật trăm phần trăm từng xảy ra ở TPHCM cách nay chưa tới 10 năm mà vì lý do
tôn trọng tôi muốn được giấu tên thật của những người trong cuộc. Một họa sĩ -
tiến sĩ nghệ thuật, từng giữ chức vụ quan trọng ở cấp thành phố, sau khi rời
nhiệm sở đã phối hợp với một bảo tàng thực hiện triển lãm tranh của cá nhân
ông. Trong chùm tranh ông gửi để xin phép theo quy định, có một bức tranh không
qua được cửa kiểm duyệt. Đó là bức vẽ cảnh trăng trên rừng Trường Sơn với những
vệt màu mô tả hình ảnh phụ nữ đang khỏa thân tắm suối. Ý kiến của vị nắm quyền
kiểm duyệt về bức tranh này là “Trường Sơn là một biểu tượng thiêng liêng của
dân tộc chúng ta mà lại vẽ có cảnh tắm suối khỏa thân, mất tôn nghiêm. Mặt
khác, đã xem trộm người ta tắm mà còn vẽ ra là không đàng hoàng. Không đồng ý
cho triển lãm bức tranh này”. Vì ý kiến kiểm duyệt như vậy mà sau đó triển lãm
đã diễn ra nhưng thiếu bức tranh có thể nói là đẹp này! Đối tượng kiểm duyệt là
họa sĩ, là người phụ trách bảo tàng mỹ thuật khi ấy cho đến nay vẫn không nguôi
thái độ bất phục, bất kính với vị kiểm duyệt quá kém về trình độ nhận thức nghệ
thuật ấy.
Người trong nghề,
đạo diễn điện ảnh Bùi Thạc Chuyên, từng nói: “Điện ảnh Hàn Quốc chấp nhận bỏ kiểm
duyệt vào năm 1996 vì muốn có nghệ thuật. Nghệ thuật cần phải được tự do. Tự do
đúng với khái niệm và nội hàm của từ này. Tự do với nghệ thuật như là không khí
để thở vậy. Không có tự do sáng tác thì nghệ thuật sẽ chết. Đừng trách nghệ sĩ
Việt Nam không dám đi đến cùng một vấn đề nào đó”. Tâm sự của đạo diễn Bùi Thạc
Chuyên về tự do trong nghệ thuật quả là rất đáng được chia sẻ khi liên hệ với
trường hợp người kiểm duyệt đã “giết chết” bức tranh vẽ trăng Trường Sơn của vị
họa sĩ khả kính mà tôi vừa kể trên đây. Tâm sự ấy một lần nữa gián tiếp nói rằng,
trao quyền kiểm duyệt văn hóa nghệ thuật không đáng sợ bằng việc trao quyền ấy
cho ai!
Ở Việt Nam sau
năm 1954 và sau năm 1975, vấn đề quá chậm cấp phép cho các bài hát trước năm
1954 và trước 1975 ở miền Nam có lẽ một phần lớn là do chưa chuẩn bị được đội
ngũ kiểm duyệt đúng chuẩn tinh tường và tinh tế.
Ngày 15-10-1989,
Cục Âm nhạc và Múa mới bắt đầu cấp phép cho các bài hát trước 1975 được phổ biến.
Trong đợt đầu tiên này có các tác phẩm xưa của Văn Cao, Đặng Thế Phong, Hoàng
Quý, Nguyễn Xuân Khoát, Đoàn Chuẩn...
Phải đợi hai năm
nữa, ngày 10-8-1991, thì mới có một số tác phẩm thời Việt Nam Cộng hòa của các
tác giả Thanh Sơn, Y Vân, Trần Thiện Thanh, Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Hoàng
Trọng, Minh Kỳ... được cấp phép phổ biến.
Và mãi đến
16-1-2003, một số bài ca của nhạc sĩ Việt ở hải ngoại được cấp phép lưu hành ở
Việt Nam. Một số tác giả phải đợi lâu hơn - nhạc Phạm Duy mới bắt đầu được cấp
phép hồi năm 2005, nhạc Lam Phương năm 2007 và nhạc Hoàng Thi Thơ năm 2008.
Câu chuyện thứ
ba và cũng là câu chuyện kết thúc bài viết cạn cợt này. Đó là, một khi tiến bộ
kỹ thuật đã trao cho người dùng các tiện ích Internet để tự công bố tác phẩm
báo chí, ca nhạc, phim và thời trang của mình mà không cần phải qua một cửa kiểm
duyệt nào, thì lẽ nào công tác kiểm duyệt văn hóa nghệ thuật cứ mãi đứng yên?
Ít nhất cũng đừng để có khoảng cách quá “bất công” trong quản lý các hoạt động
văn hóa nghệ thuật trong và ngoài các tiện ích Internet như YouTube, Facebook.
Rất khó thuyết phục rằng trình diễn khỏa thân và hát nhạc kích động hận thù dân
tộc trên Internet thì được vì đó là một khoảng công cộng “ảo”, khác với chốn
công cộng ngoài đời! Và, cũng nên nghĩ đến một lúc nào đó thì bỏ được việc kiểm
duyệt văn hóa, như Hàn Quốc vào năm 1996. Từ bấy đến nay, phim Hàn Quốc cũng có
“chăn gối nóng bỏng” và đánh đấm kinh hoàng như một số phim có qua kiểm duyệt sản
xuất tại Việt Nam đâu!
Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn