Hai Vệt Nắng Chiều và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Xuân Trường ưa xê dịch, ưa bôn ba để trải nghiệm cùng đời sống, để chìm đắm và ngộ ra mùi vị của đời sống. Đó cũng là những bước chuyển đ...
http://www.lethieunhon.vn/2018/11/hai-vet-nang-chieu-va-cuoc-ra-ngoai-tu.html
Xuân Trường ưa xê dịch, ưa bôn ba để trải nghiệm
cùng đời sống, để chìm đắm và ngộ ra mùi vị của đời sống. Đó cũng là những bước
chuyển động trong hành-trình-mặn hết mình mang hơi thở nhân sinh và thấm đẫm
hương vị nhân sinh… Với một người làm thơ, sự “mở ra” và “hướng tới” như vậy,
là rất đáng trân trọng. Chúng như hành trang quý giá khi đến với thơ và gặp thơ
trong những khúc quanh vô thường của mỗi đời thơ. Điều đáng mừng là cả sự “mở
ra” và cả sự “hướng tới” đều chân thành, say mê và riết róng đến độ...
“HAI VỆT NẮNG CHIỀU” VÀ CUỘC RA NGOÀI TỬ BIỆT
SINH LY
ĐẶNG HUY GIANG
Trong “Hai vệt nắng chiều” (Nhà xuất bản Hội
Nhà văn tháng 9 năm 2018), Xuân Trường ưa dùng hai từ “hành trình” và “mằn mặn”
(đôi khi là mặn mà hoặc mặn) trong những cảnh huống khác nhau và mang màu sắc
tâm trạng khác nhau. Có thể tạm thống kê: “Dìu dặt một hành trình” trong “Huyền
cảm sông Hàn”; “Hành trình hun hút” trong “Chiều Ái Nghĩa”; “Hành trình cơm áo”
trong “Chiều quê”; “Xa xứ một hành trình” trong “Về Khánh Hòa”; “Đôi vai hành
trình” trong “Trưa Dầu Tiếng”; “Gió sương hành trình” trong “Viết cho Lưu
Ba”...và “Mằn mặn gió Thanh Khê” trong “Trưa Đà Nẵng”; “Gió Tam Thanh đang mằn
mặn” trong “Mưa hạ Tam Kỳ”; “Biển mặn vào ta thoang thoảng ca dao” trong “Huyền
cảm sông Hàn”; “Gió vẫn mặn hoàng hôn quanh chỗ ta ngồi” trong “Hoài niệm”;
“Gió Mỹ Khê mằn mặn bước ta về” trong “Ký ức sông Hàn”; “Em mặn mà hơn xưa”
trong “Nhớ An Khê”; “Nước mắt mặn cả chiêm bao” trong “Lần xuân bảy chín”;
“Nghe nước mắt mặn mềm lên kỷ niệm” trong “Viết cho nhà thơ Thanh Tùng”...
Gộp tất cả những hành trình ấy và những mằn
mặn ấy, độc giả có thể dễ dàng nhận ra một kết quả. Đó là một Xuân Trường ưa xê
dịch, ưa bôn ba để trải nghiệm cùng đời sống, để chìm đắm và ngộ ra mùi vị của
đời sống. Đó cũng là những bước chuyển động trong hành-trình-mặn hết mình mang
hơi thở nhân sinh và thấm đẫm hương vị nhân sinh.
Với một người làm thơ, sự “mở ra” và “hướng
tới” như vậy, là rất đáng trân trọng. Chúng như hành trang quý giá khi đến với
thơ và gặp thơ trong những khúc quanh vô thường của mỗi đời thơ. Điều đáng mừng
là cả sự “mở ra” và cả sự “hướng tới” đều chân thành, say mê và riết róng đến độ.
Đó cũng là hành trình giằng xé giữa cái đã
qua và cái đang diễn ra, mà ở trong đó đã bao hàm sự dấn thân tất yếu không
tránh khỏi, mà sau chót là cái bây giờ và cái ngay ở đây: “Bình minh và hoang
hôn chất vấn nhau trong ta dữ dội/ Nên để ta già hay trẻ - chút nữa đây/ Thôi
thì ta cứ chấp nhận những niềm vui/ Mà trời đất cho ta chặng cuối của hành
trình lang bạt...” (“Trưa Đà Nẵng”)
Đó là hành trình không chỉ nhận thấy mà cảm
thấy, không chỉ bằng cái thính giác, cái thị giác...mà bằng cái toàn giác: “Ta
thở mùa bằng những hơi trầm lắng/ Im lìm nghe quê hương qua thớ thịt làn da...”(Huyền
cảm sông Hàn)
Đôi khi, tác giả hướng tới hư không và
không phải để đối thoại với hư không mà độc thoại với chính mình, với những gì
một đi không trở lại, với những gì “không có gì hai lần” theo quan niệm của nữ
sĩ Ba Lan W. Szymborska – Giải Nobel văn chương 1996: “Tôi rót chiều đầy một ly
không/ rồi nâng lên chạm vào mênh mông nỗi nhớ/ tuổi thơ hiện về, tôi gặp lại
tôi xưa...” (“Chiều quê”); “Rót chiều đấy một ly xuân/ Nâng lên tôi lại ngập ngừng
mời tôi” (“Chiều xuân uống rượu một mình”); Gió vẫn mặn hoàng hôn quanh chỗ ta
ngồi/ Tựa vào chạng vạng hoàng hôn một mình ta nghe biển (“Hoài niệm”).
Đây là những câu thơ tuy bảng lảng thi sĩ
nhưng cũng máu thịt đến tận cùng, hầu như không bị chi phối, tác động của ngoại
cảnh. Chúng như cháy lên, được sinh ra một
cách tự thân, từ một sự hướng nội theo cách hốt nhiên mà như thế, mà nên thế,
không cần nói thêm gì nữa.
Nhiều lúc, dù Xuân Trường “lưu lạc áo cơm
trắng bờ năm tháng” (“Ký ức sông hàn”), “chạm vào nợ cũ vẫn còn áo cơm” (“Tiếng
đêm”) mà vẫn yên lòng “tựa bờ chiều ta tìm lại ra xưa” (“Giữa Sài Gòn lưu đọng
một Quy Nhơn”) để “tươi xanh” cùng “miền ký ức nôn nao” (“Mưa hạ Tam Kỳ”).
Trong “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường có
nhiều câu thơ về sự thăng hoa của tình yêu, thân phận của tình yêu thật đáng nhớ
và đáng được đánh dấu khuyên vào đó. Có thể đưa ra hàng loạt dẫn chứng: “Em
chưa núi mà lòng ta muốn chạm đầu thủ thỉ/ Thời gian chảy hai ta vào tri kỷ/
Khuya khoắt đường về, khuya khoắt mênh mông” (“Đêm Krôngpa”), “Nếu mà lỡ cuộc bể
dâu/ Thì xem như mới bắt đầu nghe em/ Ngàn năm môi biển vẫn mềm/ Ngàn năm cát vẫn
dịu êm đợi chờ” và “Bồng bềnh em bồng bềnh tôi/ Nước-mây hai đứa một đôi bồng bềnh(“Sáng
nay lên đỉnh Kê Gà”), “Em không gió mà lòng ta cứ sóng/ em không hương sao ta
mãi bận lòng” và “Chiêm bao ta em vàng đến Sài Gòn” (“Bẽn lẽn dã quỳ”), “Thế
gian đông lắm người ta/ Mà sao tôi cứ thật thà một em” (“Bước chân tháng chạp”),
“Cắn miếng tinh mơ nghe ngọt lịm phù sa” (“Chợ nổi Cái Răng”)...Bốn câu thơ dưới
đây cho trong “Nhớ An Khê” thấy vẻ đẹp buồn đến mong manh của tình yêu hay là
cái đẹp của tình yêu luôn mang trong lòng nó sự mong manh ngay từ khởi thủy:
Em thở dài bằng
mắt
Tôi vội vã bằng
lời
Mà sao trong vời
vợi
Đã mầm mống chia
phôi...
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như
đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi
những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một
thi sĩ:
Ra ngoài tử biệt
sinh ly
Văn chương góp một
chuyến đi vô cùng...